Sử [Nhân vật & Sự kiện]Tổng hợp các câu hỏi

C

conangdeptra1

Có 3 triều :
Lê lợi , Lê Hoàn,....
(Nguồn SGK lớp 6)
 
Last edited by a moderator:
C

chieclabuon_35

có nhiều lắm bạn à, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng,Trần Nguyên Hãn,Doãn Nỗ, Đinh Lễ,Lê Sát, Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện , , Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bồi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến
nguồn :từ điển bách khoa toàn thư mở
 
N

nicolat12

có nhiều lắm bạn à, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng,Trần Nguyên Hãn,Doãn Nỗ, Đinh Lễ,Lê Sát, Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện , , Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bồi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến
nguồn :từ điển bách khoa toàn thư mở

Mình chỉ kể 18 người tham gia hội thề Lũng Nhai thôi. bởi vì họ là những người nổi tiếng.
ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1416). hội thề Lũng Nhai diễn ra. trong hội thề Lũng Nhai có 18 người
+ Lê Lai
+ Lê Thận
+ Lê Văn An
+ Lê Văn Linh
+ Trịnh Khả
+ Trương Lôi
+ Lê Liễu
+ Bùi Quốc Hưng
+ Lê Ninh
+ Lê Hiểm
+ Vũ Uy
+ Nguyễn Trãi
+ Đinh Liệt
+ Lê Nhân Chú
+ Lê Bồi
+ Lê Lý
+ Đinh Lan
+ Trương Chiến
nguồn: sách lịch sử VN
 
V

vanpersieno1

bbbb

Tất cả nè:Lê Lợi,Nguyễn Trãi,Trần Nguyên Hãn,Lê Lai †,Phạm Văn Xảo,Lưu Nhân Chú,Lê Sát,Lê Ngân,Phạm Vấn,Nguyễn Chích,Trần Cảo
Cái ''†'' là chết trong chiến dịch[-O<[-O<
 
B

boy_smile1102

Hai Bà Trưng

_______________Hãy cho biết thông tin về 2 bà trưng._____________________
 
Last edited by a moderator:
D

dominhphuc

Sự nghiệp



Các Lạc tướng Mê LinhChu Diên có ý chống lại sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Định bèn bắt giết Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt. Tháng 3, năm Canh Tý (40), vì Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tô Định giết chồng mình, Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở Luy Lâu (thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Theo nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát, không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất và cuộc chiến đầu của Hai Bà Trưng là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của một nước độc lập, chứ không phải là một cuộc khởi nghĩa lật đổ ách thống trị của ngoại bang.[1] Tô Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp PhốGiao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Tháng Giêng năm Nhâm Dần (42), Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành)[2] đánh nhau với vua. Quân Nam bấy giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục hai vua là đàn bà, lớp tan rã, lớp tự ly khai. Hai bà thấy thế giặc mạnh lắm, không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).
Năm Quý Mão (43), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán, thế cô bị thua, đều tử trận[3]. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong thì tàn quân đầu hàng, Mã Viện bèn dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm)[4] làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt). Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán. Người dân đã dựng đền thờ Trưng Nữ Vương ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc (nay ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây), và ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có[5].


Nguồn: wikipedia
 
D

dominhphuc

Di sản


Tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định (Tranh dân gian Đông Hồ).



Voi diễn hành nhân ngày Lễ Hai Bà Trưng 7 tháng 3 năm 1957 tại Sài Gòn



  • Hai Bà Trưng được coi là anh hùng dân tộc của Việt Nam, và được thờ cúng tại nhiều đền thờ, trong đó lớn nhất là Đền Hai Bà Trưngquận Hai Bà Trưng, Hà Nộiđền Hai Bà Trưng tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh,Vĩnh Phúc nay là Mê Linh,Hà Nội - quê hương của hai bà. Ngoài ra, tại tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) hiện nay vẫn còn miếu thờ Trưng Vương (miếu này đã được kiểm chứng bởi hai nhà nho đi sứ đó là Nguyễn ThựcNgô Thì Nhậm) do những cừ súy bị bắt về đất Hán sau khi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại lập ra để tưởng nhớ về quê hương và cũng là thể hiện tinh thần bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng.

  • Ngày nay tại các tỉnh miền nam Trung Quốc vẫn có tục thờ vua Bà, một vị thần linh thiêng trong quan niệm của người dân địa phương. Vua bà có khả năng chính là Hai Bà Trưng, do thời gian quá lâu đã thất truyền nguồn gốc của những phong tục này.

  • Các danh xưng của hai bà (Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trưng Vương, Hai Bà Trưng) còn được đặt cho nhiều trường học, đường phố, quận... ở Việt Nam.

  • Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ(hay còn gọi là chế độ mẫu hệ), trong đó phụ nữ có thể giữ vai trò lãnh đạo mà không gặp trở ngại.
Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:
Bà Trưng quê ở Châu PhongGiận người tham bạo thù chồng chẳng quênChị em nặng một lời nguyềnPhất cờ nương tử thay quyền tướng quânNgàn tây nổi áng phong trầnẦm ầm binh mã xuống gần Long BiênHồng quần nhẹ bước chinh yênĐuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thànhKinh kỳ đóng cõi Mê LinhLĩnh Nam riêng một triều đình nước taBa thu gánh vác sơn hàMột là báo phục hai là Bá VươngUy danh động tới Bắc PhươngHán sai Mã Viện lên đường tấn côngHồ Tây đua sức vẫy vùngNữ nhi địch với anh hùng được sao!Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèoHai Bà thất thế cùng liều với sông!Trước là nghĩa, sau là trungKể trong lịch sử anh hùng ai hơn. Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, là ngày giỗ hay là lễ hội tưởng nhớ Hai bà (cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam tại miền Nam trước kia) được tổ chức tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và hiện nay tại nhiều nơi trong nước Việt Nam cũng như cộng đồng người Việt tại nước ngoài.
 
D

dominhphuc

Đánh giá

Sử gia Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư:
Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy Hoàng đế Tự Đức viết trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục:
Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm ! Xét về Hai Bà Trưng, có thể nói là bậc nữ kiệt hiếm có trong lịch sử Việt Nam nói riêng và lịch sử thế giới nói chung. Đặc biệt là thân phận của nữ nhi thời phong kiến bị xem thường, vậy mà dám nổi dậy mưu toan nghiệp lớn, đền nợ nước, trả thù nhà, điều đó ngay đến đấng mày râu cũng chưa chắc đã có mấy ai được như vậy. Mặc dù cuộc khởi nghĩa này cuối cùng bị thất bại, nhưng công lao và sự nghiệp hiển hách của hai bà vẫn không thể phai mờ được. Những lời ngợi ca trên tưởng cũng không phải là ngoa.
 
H

happy.swan


Một số thông tin về Hai Bà Trưng:
-Hai Bà Trưng ở Hát Môn
- Trong cuộc khởi nghĩa chống quân Hán, hai bà đã phải chống trả quyết liệt nhưng cuối cùng phải nhảy sông tự tử
+Trong thời gian về Hưng Yên, có những người ở khu dân cư đối đãi rất tốt nhưng cũng có những nơi không chào đón hai bà. Từ đó mà bà đặt tên cho các thôn là Phụng Công (Có công); Đa Phúc (nhiều phúc lộc); Đa Ngưu (Nhiều trâu); Kim Ngưu (Trâu vàng) song song với đó là Bạc Hạ, Bạc Thượng Lại Ốc là những cái tên mạng ý nghĩa bộ bạc.
+Hai bà đã chiến đấu anh dũng đánh lại những tên địch mạnh hơn rất nhiều.
-Tuy cuộc chiến thất bại nhưng hai bà cũng khẳng định tinh thần yêu nước, tấm lòng xả thân vì đất nước và quyết tâm hy sinh vì dân tộc đặc biệt là những ngưởi nữ nhi vốn coi là chân yếu tay mềm.
 
M

mohu

Hai Bà Trưng (mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43) là tên gọi chung của Trưng Trắc và Trưng Nhị , hai chị em (nhiều tài liệu nói là sinh đôi) là anh hùng dân tộc của người Việt. Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là Nữ vương. Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử. Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam

Sự nghiệp
Các Lạc tướng Mê Linh và Chu Diên có ý chống lại sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Định bèn bắt giết Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt.
Tháng 3, năm Canh Tý (40), vì Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tô Định giết chồng mình, Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở Luy Lâu (thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Theo nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát, không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất và cuộc chiến đầu của Hai Bà Trưng là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của một nước độc lập, chứ không phải là một cuộc khởi nghĩa lật đổ ách thống trị của ngoại bang. Tô Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Tháng Giêng năm Nhâm Dần (42), Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành) đánh nhau với vua. Quân Nam bấy giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục hai vua là đàn bà, lớp tan rã, lớp tự ly khai. Hai bà thấy thế giặc mạnh lắm, không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).
Năm Quý Mão (43), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán, thế cô bị thua, đều tử trận. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong thì tàn quân đầu hàng, Mã Viện bèn dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm) làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt). Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán. Người dân đã dựng đền thờ Trưng Nữ Vương ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc (nay ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ), và ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có.

Đánh giá
Sử gia Lê Văn Hưu(Đại Việt sử ký toàn thư):
Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy
Hoàng đế Tự Đức( Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm !
Xét về Hai Bà Trưng, có thể nói là bậc nữ kiệt hiếm có trong lịch sử Việt Nam nói riêng và lịch sử thế giới nói chung. Đặc biệt là thân phận của nữ nhi thời phong kiến bị xem thường, vậy mà dám nổi dậy mưu toan nghiệp lớn, đền nợ nước, trả thù nhà, điều đó ngay đến đấng mày râu cũng chưa chắc đã có mấy ai được như vậy. Mặc dù cuộc khởi nghĩa này cuối cùng bị thất bại, nhưng công lao và sự nghiệp hiển hách của hai bà vẫn không thể phai mờ được. Những lời ngợi ca trên tưởng cũng không phải là ngoa.

Di sản


Hai Bà Trưng là anh hùng dân tộc của Việt Nam, và được thờ tại nhiều đền, trong đó lớn nhất là Đền Hai Bà Trưng ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và đền Hai Bà Trưng tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh nay là Mê Linh,Hà Nội - quê hương của hai bà. Ngoài ra, tại tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) hiện nay vẫn còn miếu thờ Trưng Vương (miếu này đã được kiểm chứng bởi hai nhà nho đi sứ là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm) do những cừ súy bị bắt về đất Hán sau khi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại lập ra để tưởng nhớ về quê hương và cũng là thể hiện tinh thần bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng
Ngày nay tại các tỉnh miền nam Trung Quốc vẫn có tục thờ vua Bà, một vị thần linh thiêng trong quan niệm củadân địa phương. Vua bà có khả năng chính là Hai Bà Trưng, do thời gian quá lâu đã thất truyền nguồn gốc của những phong tục này
Các danh xưng của hai bà (Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trưng Vương, Hai Bà Trưng) còn được đặt cho nhiều trường học, đường phố, quận... ở Việt Nam.
Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ(chế độ mẫu hệ), trong đó phụ nữ có thể giữ vai trò lãnh đạo
Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục hai là Bá Vương
Uy danh động tới Bắc Phương
Hán sai Mã Viện lên đường tấn công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi địch với anh hùng được sao!
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
Hai Bà thất thế cùng liều với sông!
Trước là nghĩa, sau là trung
Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn
Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, là ngày giỗ hay là lễ hội tưởng nhớ Hai bà (cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam tại miền Nam trước kia) được tổ chức tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và hiện nay tại nhiều nơi trong nước Việt Nam cũng như cộng đồng người Việt tại nước ngoài.




nguồn : https://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_Bà_Trưng

:khi (17)::khi (17)::khi (17)::khi (17)::khi (17):
 
Last edited by a moderator:
M

mohu

Tướng lĩnh của Hai Bà Trưng

Theo nhiều nguồn tài liệu, thì hai bà có đến hơn bảy chục tướng lĩnh, trong đó có nhiều thủ lĩnh các nghĩa quân địa phương, hiện còn nhiều đền thờ lập thành hoàng làng ở miền Bắc. Đặc biệt, trong số này có nhiều nữ tướng lĩnh.
Thánh Thiên - nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa Yên Dũng, Bắc Đái - Bắc Giang. Tài kiêm văn võ, được Trưng Vương phong là Thánh Thiên Công chúa, giữ chức Bình Ngô đại tướng quân, thống lĩnh binh mã trấn thủ vùng Nam Hải (Hải Nam). Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Ninh
Lê Chân - nữ tướng miền biển: Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong là Đông Triều công chúa, lĩnh ấn Trấn Đông đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nam Hải. Hiện có đền Nghè, ở An Biên, Hải Phòng thờ
Bát Nạn Đại tướng: Tên thực là Thục Nương, khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng Vương phong là Bát Nạn Đại tướng, Uy viễn đại tướng quân, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù Ninh, Phú Thọ) và Tiên La (Hưng Hà, Thái Bình)
Ngọc Quang công chúa: Tên thật là Vương Thị Tiên, có miếu thờ ở xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, bà có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc và gieo mình tự vẫn tuẫn tiết tại xã Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, Nam Định. Sau này đến đời vua Lý Thái Tông có năm hạn hán lớn, nhà vua lập đàn cầu mưa, bà còn hiển linh giúp dân chống hạn. Nhà vua giáng chỉ cho dân địa phương thờ phụng theo nghi lễ đầy đủ hơn và tặng thêm hai chữ trong duệ hiệu, thành: Ngọc Quang Thiên Hương Công Chúa
Nàng Nội - Nữ tướng hùng Bạch Hạc: Khởi nghĩa ở xã Bạch Hạc (thành phố Việt Trì, Phú Thọ ngày nay) được Trưng Vương phong là Nhập Nội Bạch Hạc Thủy Công chúa. Hiện thành phố Việt Trì có đền thờ
Lê Thị Hoa - Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hóa) được Trưng Vương phong là Nga Sơn công chúa, lĩnh chức Bình Nam đại tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Cửu Chân . Hiện có đền thờ ở Nga Sơn
Hồ Đề - Phó Nguyên soái: Khởi nghĩa ở Động Lão Mai (Thái Nguyên), được Trưng Vương phong là Đề Nương công chúa lãnh chức Phó nguyên soái, Trấn Viễn đại tướng quân. Đình Đông Cao, Yên Lập (Phú Thọ) thờ Hồ Đề
Xuân Nương, chồng là Thi Bằng em trai Thi Sách, Trưởng quản quân cơ: Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương phong làm Đông Cung công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hưng Nha (Tam Nông), Phú Thọ.
Nàng Quỳnh - Nàng Quế tiên phong phó tướng: Khởi nghĩa ở Châu Đại Man (Tuyên Quang), được Trưng Vương sắc phong Nghi Hòa công chúa, lĩnh chức Hổ Oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nhật Nam trấn thủ vùng Bắc Nam Hải. Hiện ở Tuyên Quang còn miếu thờ hai vị nữ anh hùng
Đàm Ngọc Nga - tiền đạo tả tướng: Khởi nghĩa ở Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, Phú Thọ được Trưng Vương phong là Nguyệt Điện Tế thế công chúa giữ chức Tiền đạo tả tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Nam Hải
Thiều Hoa - Tiên phong nữ tướng: Khởi nghĩa ở Tam Thanh, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Đông Cung công chúa giữ chức Tiên phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ có miếu thờ
Quách A - Tiên phong tả tướng: Khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Khâu Ni công chúa giữ chức tả tướng tiên phong,lĩnh ấn Tổng trấn Luy Lâu. Hiện có đền thờ ở trang Nhật Chiêu (Phú Thọ).
Vĩnh Hoa - nội thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Tiên Nha (Phú Thọ). Được Trưng Vương phong là Vĩnh Hoa công chúa giữ chức nội thị tướng quân. Đình Nghênh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc thờ Vĩnh Hoa
Lê Ngọc Trinh - Đại tướng: Khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Được Trưng Vương phong là Ngọc Phượng công chúa giữ chức Chinh thảo Đại tướng quân, phó thống lĩnh đạo quân Quế Lâm. Hiện có miếu thờ ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Lê Thị Lan - Tướng quân: Khởi nghĩa ở Đường Lâm - Sơn Tây. Được Trưng Vương phong là Nhu Mẫn công chúa, lĩnh ấn Trấn tây tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Hán trung. Hiện ở Hạ Hoà, Vĩnh Phúc có miếu thờ
Phật Nguyệt- Tả tướng thuỷ quân: Khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Phật Nguyệt công chúa giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thuỷ quân, Chinh Bắc đại tướng quân, tổng trấn khu hồ Động đình - Trường Sa. Bà hình như không được ghi vào sử Việt Nam mà lại được ghi vào sử Trung Quốc. Hiện di tích về bà còn rất nhiều: Tại chùa Kiến quốc thuộc Trường sa, tại ngôi chùa trên núi Thiên đài trong ngọn núi Ngũ-lĩnh. Bà là một nữ tướng gây kinh hoàng cho triều Hán nhất
Phương Dung - nữ tướng: Khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh). Được Trưng Vương Sắc phong Đăng-Châu công chúa. Lĩnh ấn Trấn-nam đại tướng quân. Thống lĩnh đạo binh Giao-chỉ
Trần Năng - Trưởng Lĩnh trung quân: Khởi nghĩa ở Thượng Hồng (Hải Dương). Được Trưng Vương phong là Hoàng công chúa, Vũ Kỵ đại tướng quân, giữ chức Trưởng lĩnh trung quân. Hiện ở Yên Lãng, Vĩnh Phúc có đền thờ
Nàng Quốc - Trung dũng đại tướng quân: Khởi nghĩa ở Gia Lâm - Hà Nội. Được Trưng Vương phong là Gia Hưng công chúa, Trung Dũng đại tướng quân, Lĩnh ấn Đô-đốc, chưởng quản thủy quân trấn bắc Nam-hải. Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm thờ nàng Quốc
Tam Nương - Tả đạo tướng quân: Ba chị em Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương. Trưng Vương sắc phong Hồng-Nương làm An-Bình công chúa. Thanh-Nương làm Bình-Xuyên công chúa. Đạm-Nương làm Quất-Lưu công chúa, giao lĩnh ấn Kỵ binh Lĩnh Nam. Đình Quất Lưu, Vĩnh Phúc thờ Tam Nương
Quý Lan – Nội thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương). Được Trưng Vương phong là An Bình công chúa giữ chức nội thị tướng quân (Lễ bộ Thượng thư). Hiện ở Liễu Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc có đền thờ Qúy Lan.
Bà Chúa Bầu: Khởi nghĩa ở vùng Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Hiện ở Lập Thạch, Sơn Dương có đền thờ tưởng nhớ công lao của bà
Sa Giang, quê Trường Sa, người Hán, sang giúp Lĩnh Nam. Được Trưng Vương sắc phong Lĩnh-nam công chúa. Bà là một nhân vật lịch sử. Hiện ngoại ô huyện Phong-đô tỉnh Tứ-xuyên có đền thờ bà
Đô Thiên, người Trung Quốc, ứng nghĩa theo Lĩnh Nam. Được Trưng Vương Sắc phong Động-đình công. Lĩnh ấn Trung-nghĩa đại tướng quân. Thống lĩnh đạo quân Hán-trung. Tổng trấn Trường-sa. Hiện vùng Lưỡng-Quảng có rất nhiều miếu, đền thờ ông
Ngoài ra còn có thủ lĩnh của nhân dân Tày, Nùng, Choang(Quảng Tây) lãnh đạo nhân dân tham gia cuộc khởi nghĩa của hai bà


nguồn : https://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_Bà_Trưng

:khi (59)::khi (59)::khi (59)::khi (59)::khi (59):
 
Last edited by a moderator:
C

cara2012

[Lịch Sử 6] Võ Thị Sáu

Ai có tiểu sử của VÕ THỊ SÁU không ??

THANKS YOUS NHIỀU
 
M

mxta456

Lưu dung

AI CÓ BÍT LƯU DUNG LÀM QUAN TRONG NHỮNG THỜI VUA NÀO?CÁC CHI TIẾT VỀ ÔNG (TẤT CẢ)?ÔNG CÓ LÀM QUAN THỜI VUA GIA KHÁNH NHÀ THANH Ko
 
T

thaolovely1412

Đây là 1 số chi tiết mình biết nè:
Lưu Dung quê ở thôn Bàng Qua Trang, trấn Chú Câu (nay là thị xã Cao Mật), Như Thành, Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là con trai của Lưu Thống Huân. Năm Càn Long thứ 16 (1751), ông đỗ tiến sĩ. Ông làm đến chức Nội các đại học sĩ và nổi tiếng về tài thư pháp.
Tương truyền, ông có một cái bướu ở lưng. Vì thế, dân gian gọi ông Lưu La Oa.
Kinh kịch có vở Tể tướng Lưu La Oa. Điện ảnh có bộ phim Tể tướng Lưu gù, Lưu La Oa xử án truyền kỳ, Tiểu tử Lưu gù, v.v...
Lưu Dung tên chữ là Sùng Như, hiệu là Thạch Am, người ở Chư Thành, Sơn Đông, ông sinh năm thứ 58 Khang Hy, tức năm 1719 công nguyên, mất vào năm thứ 9 Gia Khánh, tức năm 1805 công nguyên, hưởng thọ 86 tuổi. Ông sinh ra trong gia đình có học, đỗ tiến sĩ năm 32 tuổi. Sau khi đỗ tiến sĩ thì làm quan địa phương ở nhiều tỉnh, và sau này giữ chức quan cao nhất là Đại học sĩ thể nhân các,Thái tử Thái Bảo. Ông không những là Nhà chính trị nổi tiếng, mà còn là Nhà thư pháp và nhà thơ, thư pháp của ông đường nét rắn khỏe, nét bút có hồn đẹp mắt và độc đáo, trở thành phong cách rất riêng của mình và nổi tiếng thiên hạ; Giống như trong phim Lưu Dung là một học giả lớn, học rộng, uyên thâm. Sống qua 4 đời vua Khang Hy , Ung Chính , Càn Long , và Gia Khánh. Nhưng cũng nói thêm là, chi tiết Lưu Dung gù, không phải là bị tật từ nhỏ mà đến năm 40 tuổi ông mới bị gù. Và chính Kỷ Hiểu Lam đã đặt cho ông biệt hiệu là Lưu la oa tử nghĩa Lưu lưng gù. Suốt đời Lưu Dung sống giản dị, luôn lo nghĩ cho lợi ích của dân, cho nên được nhân dân kính mến, ông không tham ô một xu một đồng hay bất cứ một vật gì. Khi chỉ dẫn dân đắp đê xây cầu, bao giờ ông cũng ở vị trí đứng mũi chịu sào. Ông ăn mặc đơn sơ giản dị, ăn ngô khoai sắn với dân. Ông thích nhất là món bánh tráng rán cuốn hành. Năm thứ 16 Càn Long, Lưu Dung đỗ Tiến sĩ, từng làm chức Lệ bộ Thượng Thư, thể các đại học sĩ. Ông có rất nhiều tác phẩm thư pháp nổi tiếng
 
L

longhocgioi951

1 số danh nhân trong khởi nghĩa Lam Sơn là:Lê Lai, Lê Văn Linh, Trương Lôi, Bùi Quốc Hưng,Trần Nguyên Hãn, Đinh Lễ, Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khảm, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến,Lê Văn An, Lê Liễu
 
T

thinhnguyen096

Ấn đúng cho mình nhé.

Lưu Dung quê ở thôn Bàng Qua Trang, trấn Chú Câu (nay là thị xã Cao Mật), Như Thành, Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là con trai của Lưu Thống Huân. Năm Càn Long thứ 16 (1751), ông đỗ tiến sĩ. Ông làm đến chức Nội các đại học sĩ và nổi tiếng về tài thư pháp.
Tương truyền, ông có một cái bướu ở lưng. Vì thế, dân gian gọi ông Lưu La Oa.
Kinh kịch có vở Tể tướng Lưu La Oa. Điện ảnh có bộ phim Tể tướng Lưu gù, Lưu La Oa xử án truyền kỳ, Tiểu tử Lưu gù, v.v...
Lưu Dung tên chữ là Sùng Như, hiệu là Thạch Am, người ở Chư Thành, Sơn Đông, ông sinh năm thứ 58 Khang Hy, tức năm 1719 công nguyên, mất vào năm thứ 9 Gia Khánh, tức năm 1805 công nguyên, hưởng thọ 86 tuổi. Ông sinh ra trong gia đình có học, đỗ tiến sĩ năm 32 tuổi. Sau khi đỗ tiến sĩ thì làm quan địa phương ở nhiều tỉnh, và sau này giữ chức quan cao nhất là Đại học sĩ thể nhân các,Thái tử Thái Bảo. Ông không những là Nhà chính trị nổi tiếng, mà còn là Nhà thư pháp và nhà thơ, thư pháp của ông đường nét rắn khỏe, nét bút có hồn đẹp mắt và độc đáo, trở thành phong cách rất riêng của mình và nổi tiếng thiên hạ; Giống như trong phim Lưu Dung là một học giả lớn, học rộng, uyên thâm. Sống qua 4 đời vua Khang Hy , Ung Chính , Càn Long , và Gia Khánh. Nhưng cũng nói thêm là, chi tiết Lưu Dung gù, không phải là bị tật từ nhỏ mà đến năm 40 tuổi ông mới bị gù. Và chính Kỷ Hiểu Lam đã đặt cho ông biệt hiệu là Lưu la oa tử nghĩa Lưu lưng gù. Suốt đời Lưu Dung sống giản dị, luôn lo nghĩ cho lợi ích của dân, cho nên được nhân dân kính mến, ông không tham ô một xu một đồng hay bất cứ một vật gì. Khi chỉ dẫn dân đắp đê xây cầu, bao giờ ông cũng ở vị trí đứng mũi chịu sào. Ông ăn mặc đơn sơ giản dị, ăn ngô khoai sắn với dân. Ông thích nhất là món bánh tráng rán cuốn hành. Năm thứ 16 Càn Long, Lưu Dung đỗ Tiến sĩ, từng làm chức Lệ bộ Thượng Thư, thể các đại học sĩ. Ông có rất nhiều tác phẩm thư pháp nổi tiếng.
 
T

thinhnguyen096

Lưu Dung quê ở thôn Bàng Qua Trang, trấn Chú Câu (nay là thị xã Cao Mật), Như Thành, Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là con trai của Lưu Thống Huân. Năm Càn Long thứ 16 (1751), ông đỗ tiến sĩ. Ông làm đến chức Nội các đại học sĩ và nổi tiếng về tài thư pháp.
Tương truyền, ông có một cái bướu ở lưng. Vì thế, dân gian gọi ông Lưu La Oa.
Kinh kịch có vở Tể tướng Lưu La Oa. Điện ảnh có bộ phim Tể tướng Lưu gù, Lưu La Oa xử án truyền kỳ, Tiểu tử Lưu gù, v.v...
Lưu Dung tên chữ là Sùng Như, hiệu là Thạch Am, người ở Chư Thành, Sơn Đông, ông sinh năm thứ 58 Khang Hy, tức năm 1719 công nguyên, mất vào năm thứ 9 Gia Khánh, tức năm 1805 công nguyên, hưởng thọ 86 tuổi. Ông sinh ra trong gia đình có học, đỗ tiến sĩ năm 32 tuổi. Sau khi đỗ tiến sĩ thì làm quan địa phương ở nhiều tỉnh, và sau này giữ chức quan cao nhất là Đại học sĩ thể nhân các,Thái tử Thái Bảo. Ông không những là Nhà chính trị nổi tiếng, mà còn là Nhà thư pháp và nhà thơ, thư pháp của ông đường nét rắn khỏe, nét bút có hồn đẹp mắt và độc đáo, trở thành phong cách rất riêng của mình và nổi tiếng thiên hạ; Giống như trong phim Lưu Dung là một học giả lớn, học rộng, uyên thâm. Sống qua 4 đời vua Khang Hy , Ung Chính , Càn Long , và Gia Khánh. Nhưng cũng nói thêm là, chi tiết Lưu Dung gù, không phải là bị tật từ nhỏ mà đến năm 40 tuổi ông mới bị gù. Và chính Kỷ Hiểu Lam đã đặt cho ông biệt hiệu là Lưu la oa tử nghĩa Lưu lưng gù. Suốt đời Lưu Dung sống giản dị, luôn lo nghĩ cho lợi ích của dân, cho nên được nhân dân kính mến, ông không tham ô một xu một đồng hay bất cứ một vật gì. Khi chỉ dẫn dân đắp đê xây cầu, bao giờ ông cũng ở vị trí đứng mũi chịu sào. Ông ăn mặc đơn sơ giản dị, ăn ngô khoai sắn với dân. Ông thích nhất là món bánh tráng rán cuốn hành. Năm thứ 16 Càn Long, Lưu Dung đỗ Tiến sĩ, từng làm chức Lệ bộ Thượng Thư, thể các đại học sĩ. Ông có rất nhiều tác phẩm thư pháp nổi tiếng.
 
H

hiennguyenthu082

Lưu Dung là một quan nhà Thanh.
Lưu Dung quê ở thôn Bàng Qua Trang, trấn Chú Câu (nay là thị xã Cao Mật), Như Thành, Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là con trai của Lưu Thống Huân. Năm Càn Long thứ 16 (1751), ông đỗ tiến sĩ. Ông làm đến chức Nội các đại học sĩ và nổi tiếng về tài thư pháp.
Tương truyền, ông có một cái bướu ở lưng. Vì thế, dân gian gọi ông Lưu La Oa.
Kinh kịch có vở Tể tướng Lưu La Oa. Điện ảnh có bộ phim Tể tướng Lưu gù, Lưu La Oa xử án truyền kỳ, Tiểu tử Lưu gù, v.v...
Lưu Dung tên chữ là Sùng Như, hiệu là Thạch Am, người ở Chư Thành, Sơn Đông, ông sinh năm thứ 58 Khang Hy, tức năm 1719 công nguyên, mất vào năm thứ 9 Gia Khánh, tức năm 1805 công nguyên, hưởng thọ 86 tuổi. Ông sinh ra trong gia đình có học, đỗ tiến sĩ năm 32 tuổi. Sau khi đỗ tiến sĩ thì làm quan địa phương ở nhiều tỉnh, và sau này giữ chức quan cao nhất là Đại học sĩ thể nhân các,Thái tử Thái Bảo. Ông không những là Nhà chính trị nổi tiếng, mà còn là Nhà thư pháp và nhà thơ, thư pháp của ông đường nét rắn khỏe, nét bút có hồn đẹp mắt và độc đáo, trở thành phong cách rất riêng của mình và nổi tiếng thiên hạ; Giống như trong phim Lưu Dung là một học giả lớn, học rộng, uyên thâm. Sống qua 4 đời vua Khang Hy , Ung Chính , Càn Long , và Gia Khánh. Nhưng cũng nói thêm là, chi tiết Lưu Dung gù, không phải là bị tật từ nhỏ mà đến năm 40 tuổi ông mới bị gù. Và chính Kỷ Hiểu Lam đã đặt cho ông biệt hiệu là Lưu la oa tử nghĩa Lưu lưng gù. Suốt đời Lưu Dung sống giản dị, luôn lo nghĩ cho lợi ích của dân, cho nên được nhân dân kính mến, ông không tham ô một xu một đồng hay bất cứ một vật gì. Khi chỉ dẫn dân đắp đê xây cầu, bao giờ ông cũng ở vị trí đứng mũi chịu sào. Ông ăn mặc đơn sơ giản dị, ăn ngô khoai sắn với dân. Ông thích nhất là món bánh tráng rán cuốn hành. Năm thứ 16 Càn Long, Lưu Dung đỗ Tiến sĩ, từng làm chức Lệ bộ Thượng Thư, thể các đại học sĩ. Ông có rất nhiều tác phẩm thư pháp nổi tiếng
 
S

superstarneul

dễ ợt các tướng đó là
Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng,Trần Nguyên Hãn,Doãn Nỗ, Đinh Lễ,Lê Sát, Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện , , Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bồi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến
 
S

scientists

[Lịch sử] Lai lịch về nhân vật Hồ Xuân Hương

Xin các anh, chị cho em một ít tài liệu rõ ràng về "Bà chúa thơ Nôm" này, tài liệu về bà ta thật ít ỏi, lai lịch lại chẳng rõ ràng.

Theo Wikipedia,
"Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi; thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương?. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.'
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704 mất ?) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An (Nhưng theo một tài liệu mới được công bố (trên tạp chí Văn học số 10-1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư Trần Thanh Mai, thì Hồ Xuân Hương có cùng quê quán, nhưng là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783), em cùng cha với Hồ Sĩ Ðống (1738-1786).. ) Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.
Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức 1772-1822. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện "cổ nguyệt đình"?. Bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, quan Tri phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển ?!).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
"

Nói chẳng rõ ràng gì cả ! Thật ra là như thế nào ?
Chân thành cảm ơn !
 
Top Bottom