Tương tư của Nguyễn Bính

D

doigiaythuytinh

mọi người cho mình hỏi để làm đề "hồn quê đất nước trong bài tương tư của Nguyễn Bínhh thì cần phải có những ý nào trong bài văn?
:khi (2):

Mình nghĩ, "hồn quê đất nước" được làm rõ ở nghệ thuật của bài thơ.
Bạn chỉ rõ những nét nghệ thuật rồi phân tích tác dụng của chúng là được

Chú ý những nét nghệ thuật:

- Cách nói vòng vo (thể hiện qua biện pháp ẩn dụ, hoán dụ) thường gặp trong các câu ca dao xưa

- Thể thơ dân tộc

- Những hình ảnh giàu chất chân quê (thôn, làng, ...) , giọng điệu nhẹ nhàng, trong sáng, màu săc thiên nhiên



Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với điệu thơ dân tộc.

“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính nói chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.

Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương tư chiều” nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn đối với những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới.

Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đến độ cháy bóng mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gío mưa là bệnh của giời

Tương tư là bện của tôi yêu nàng”.

Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả không gian lẫn thời gian? Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cô gái có thể thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn thêm hờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương (như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi kia rõ ràng trở thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc đời còn những mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo những quy tắc rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nõ trách Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ…

Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày, phơi trải được Nguyễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng vo:

“Gió mưa là bện của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn tiếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn tiếng nói ấy xuất hiện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí dân dã, quê mùa cho toàn bài thơ:

“Hai thôn chung lại một làng,

Có sao bên ấy chẳng sang bên này?

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”

Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như những nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở nên gần gũi với người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ của con người và tạo vật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học chưa làm được.

Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà thơ Nguyễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại, phản ánh một mảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này.

Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu nó gợi lên được cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu thơ nào mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví von, cũng như giọng điệu chung.

Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong mình một đôi kỷ niệm về một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội, xem chèo,… với trang phục cổ truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có thôn Đoài, thôn Đông, có con đò và bến nước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó còn có nơi sinh thành và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài… Hệ thống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví von ấy đã đánh thức con người nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao xuyến về một làng quê Việt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng.

Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá:

“Nửa năm hơi tiếng vừa quen

Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”.

(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)

Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ dân dã, mộc mạc:

“Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.

Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào… để giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh tế. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng triệt để các cách nói ấy mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai còn có câu dường như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ gặp nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách dùng hình ảnh, cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay vì lối diễn đạt trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng lối diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của ca dao thuần khiết:

“Nhà em có một giàn giầu

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có lẽ chỉ mình Nguyễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều…

Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong phú và tươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều người yêu thích thơ ông
.
 
F

freakie_fuckie

Hồn quê à ;)) Hồn quê ấy nó ẩn sẵn trong cái bệnh tương tư "rất quê" kia rồi đấy ;)) Cần gì đâu cho mệt.


Túm váy lại nè. :p Bạn sao không thử khai thách theo các ý chính sau ?

Nội dung


- Quê trong bối cảnh nghệ thuật (Làng ...quê ;)) )


Thơ Nguyễn Bính ưa lấy những khung cảnh mộc mạc, gần gũi, tiêu sơ của những làng quê xưa: toàn là những ngôi làng, những mái nhà tranh không rõ địa điểm nhưng lại mang tính phổ quát cao, đọc thơ ai cũng thấy cái bối cảnh nghệ thuật được dựng lên trong thơ kha khá giống với những hình ảnh làng quê trong tâm khảm mình (cũng có làng, có thôn, có xóm, có hàng cau, có giàn trầu, có chuyến đò ngang, etc.) . Không những vậy, cách tái hiện lại không gian cũng có cái chất "quê kiểng" riêng của nó :

Hai thôn chung lại một làng
Nhà em có một giàn trầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng.


Những vần thơ này hoàn toàn không sử dụng đến những kỹ xảo (hay kỹ thuật) ngôn ngữ, chân chất, giản dị, mộc mạc, có phần bộc trực nhưng lại không vụng, không thô, gợi hình, gợi cảm.

- Quê trong khắc họa nhân vật và tự phác họa chủ thể trữ tình (Người quê ;)) )


Cái cách mà Nguyễn Bính khắc họa lại những nam thanh nữ tú đang độ tuổi "chuồng gà đã mở nhưng chưa ai vào :-" " cũng có nét thôn quê riêng. Đặc biệt ở "Tương tư", cái chàng trai kia thật hiền lành, thật trong sáng quá (Hồn tôi giếng ngọc trong veo - Tình Tôi (NB) ) , cứ e ấp, giấu giếm, ngại ngùng mãi với một mối tình non tơ, đọc vừa thấy yêu, vừa thấy thương, vừa thấy giận bởi chàng ....khờ quá thể . (Nhát gái :p ) - khờ ở cách trông mong, khờ ở cách yêu mà không dám nói, để rồi nhìn đất nhìn trời, đâm giận dỗi bâng quơ ) Cái nhát gái của anh chàng này cũng thể hiện phần nào được cái tính chất của các mối quan hệ làng quê - đó là mối quan hệ trong sáng, lành mạnh và rất có văn hóa , quan hệ của trai gái luôn được nâng lên trên một phạm trù thiêng liêng, mang hơi thở của tôn giáo/ lễ giáo phong kiến, nồng đượm cái chất giản dị mà không hời hợt của những mối quan hệ đậm chất quê hương.


- Và rồi quê trong những cái "tình quê"

+ Tình yêu thiên nhiên quê hương đất nước
+ Tình yêu với những con người ở thôn quê, thể hiện ở sự trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bề ngoài lẫn vẻ đẹp bên trong họ. Nhà thơ hóa thân vào những con người thôn quê, cảm những xúc cảm của họ, cất lên tiếng lòng của họ.
+ Tình yêu những bản sắc của quê hương : Sự trân trọng những bản sắc dân tộc gói trọn hồn quê ẩn sau bóng của những lũy tre làng .


Nghệ thuật:


- Thể thơ : thể thơ lục bát - đây là một thể thơ dân gian, một thể thơ hoàn toàn quê. Giọng thơ mộc mạc, giản dị, câu thơ bình đạm, tưởng như không dùng đến những sự trau truốt cầu kỳ của ngôn từ.

T/d : đã thể hiện "những sâu sắc trong tâm hồn không chỉ của một cá nhân mà của cả một dân tộc"


- Đa nghĩa hóa ngôn từ, dùng nhiều ca dao, tục ngữ, chơi kiểu nói vòng, bóng gió xa xôi.
Đọc thơ sẽ thấy hồn vía của nhiều câu ca dao quen thuộc.


- H/a hoán, ẩn dụ, so sánh, ví von, hỏi tu từ..



~> Kết luận:


Chẳng biết đồng chí chủ pic có còn cần cái này nữa không :)
Đọc lại Thi nhân Việt Nam kể ra cũng hơi là cực :((
 
Top Bottom