[Ngữ văn 8] Về 2 khổ cuối bài thơ "Ông đồ".

H

hie_hie.oack

L

l0ve.literature_7997

Xã hội đi qua ông đồ,lãnh đạm,vô tình,thậm chí ông ngồi đấy mà như là vô hình trước mặt họ,ông như bị lãng quên trong sự vô tình của người đời.Mưa phùn,gió lạnh của tiết xuân như càng làm tăng vẻ thê lương của tình cảnh bấy giờ của ông đồ.Nỗi buồn như thấm vào từng câu chữ:
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.


Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa...
Đọc đến đây,ta tự hỏi,liệu có mấy người có tấm lòng như nhà thơ để thảnh thốt nhận ra cuộc ra đi lặng lẽ của ông đồ.Hai câu thơ cuối da diết lòng người,đưa bài thơ vượt khỏi bản thân nó,vươn tới 1 cái gì đó xa xăm hơn.Nó không chỉ còn là truyện ông đồ nữa mà rộng xa hơn,thăm thẳm hơn:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ









P/s:Tạm thế,mình thâý nó hơi sơ sài :)
 
M

meoconnhinhanh97

''nhưng...giờ''
dòng nhịp tgian cứ trôi đi để rồi cho ta thấy sự biến thiên của ông đồ cũng như của nét văn hoá nho học VN lúc đó.mọi vật vẫn diện ra như cữ,đào vẫn nở,phố xá vẫn nhộn nhịp đông vui,vẫn là hình ảnh ông đồ vs công việc viết câu đối nhưng giờ đây,mọi việc đã hoàn toàn thay đổi.mọi ng k còn vây quanh ông đồ thue viết đồng nghĩa vs việc chơi câu đối ngày tết bị mai một.trước sự thờ ơ của ng đời,ông đồ buồn,nỗi buồn dường như kết tụ thành hình,thành khối đến k tan đi đk thấm sang cả cảnh vật vô tri vô giác,biến thành nỗi đau của thời đại.ông cô độc 1 mình cố bám trụ tgian nhưng k thể.cái cô độc càng cô độc hơn,lặng lẽ hơn giữa dòng ng qua lại.ông nhoè đi trong màn mưa bụi giăng mắt và mất hút vào 1 miền xa lắc xa lơ.tác giả như bàng hoàng,xót xa trước sự lãng quên của ng đời.câu hỏi vang lên như là niềm thương xót trước sự biến mất của nền văn hoá nho học,nền tri thức vốn dĩ dk tôn thờ của dan tộc đồng thời cẩm thông cho 1 lớp ng trong xã hội bị thất thế.những quy luật của tự nhiên đến rồi đi để rồi cho ta vui vs niềm vui của ông đồ nhưng cũng buồn vs nỗi buồn của ông.cái khoảng vàng son của ông dường như trôi qua rất nhanh để chân cho nỗi đau trước sự biến mất hoàn toàn của ông đồ b-(b-( b-(
@@:k biết làmb-( b-( b-(
 
F

freakie_fuckie

Viết đoạn văn diễn dịch(8-10) câu, phân tích 2 khổ thơ cuối bài Ông Đồ để thấy được hình ảnh ông Đồ trong thời kì thất thế, bị nguời đời lạnh nhạt lãng quên.

Cảm ơn các bạn nhìu@!!!!!!!!!!!!!:):):):):):):):):):):):):):):):):):):)

@ đoạn văn ý là gì nhỉ
Phải chăng là
Ông đồ vẫn ngồi đới
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
Đoạn ông đồ vẫn ngồi đới b-( Đoạn này may mắn đc làm cả chục lần
- Đó là những vần thơ ngũ ngôn bình dị, chẳng một chút đẽo gọt cầu kì mà thâm trầm bề sâu, ngập tràn xúc cảm, đã làm lay động trái tim, khơi gợi niềm thương từ biết bao thế hệ. Khổ thơ bốn, có lẽ là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất trong thi phẩm này- một khổ thơ lê thê nỗi buồn, lắng đọng niềm thương tiếc "trích khổ gần cuối ra" b-(
Vẫn góc phố ấy, vẫn con người ấy, vẫn tờ giấy đỏ, vẫn nghiên mực đầy, chỉ có điều, những con người chuộng chữ, những con người mặn mà với nét chữ phượng múa uyển chuyển thiêng liêng giờ đã chẳng còn nhiều, góc phố vắng hoe, công việc cầm chừng, khung cảnh buồn hiu và cô quạnh, ông đồ thì "vẫn" ngồi đấy, kiên trì và nhẫn nại đến lạ thường, ông tưởng như đang ở một thế giới khác, cách biệt với thực tại, chẳng khác một cái thể lạc lõng đang loãng dần vào không gian, đáng thương khôn xiết. Nỗi buồn lê thê của kẻ mang sầu vỡ òa ra không gian, thấm vào lá vàng rơi, quyện vào mưa lạnh buốt, câu thơ thấm nỗi buồn bâng khuâng, tiếngmuwa rơi trong chữ mà vang vọng tới tận đáy lòng
Thời gian đi những bước tuần hoàn : năm trước đào nở, năm nay đào cũng chẳng tàn dù cho nhân vật trữ tình đã bước vào cõi bằng an, cõi bằng an ở đây, phải chăng là cái miền quên lãng. Chi tiết cuối hoàn thiện nốt một họa phẩm buồn(mỗi năm.lại thấy, mỗi năm mỗi vắng....lại nở ) đồng thời cũng là điểm cuối của vòng tròn tạo hóa : thịnh suy - huy hoàng- vang bóng) Đọc mà bỗng nhớ một vần thơ Thôi Hiệu cổ
" Hoa đào năm ngoái còn cười gióddooong "
Từ nay, hinbfh ảnh ông đồ đã vĩnh viễn đi vào quá khứ, vĩnh viễn vắng bóng bên góc đường nhộn nhịp. Câu thơ cuối như lời tự vấn ngậm ngùi, tràn ngập niềm thương cảm sâu sa. Chữ "hồn" là một cách gọi rất Viêt , gợi đúng những cái đã qua nhưng còn lại mãi, hồn là bất tử, văn hóa chỉ có thăng trầm mà không có mất đi , câu thơ đã chạm vào dòng tâm linh giống nòi nên tha thiết mãi (cái này cô cho chép b-( )
* có người nói, khổ thơ cuối thể hiện bi kịch lớn nhất của ông đồ : đó là ông chịu chết khi còn sống và chỉ chết khi không còn còn chỗ sống, ông không thể chấp nhận thực tại, không thể chấp nhận thực tại, cái vòng khắc nghiệt của tạo hóa...
 
S

subon

ai mún thj` tuj cho cả baj` lun
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên có 5 khổ, mỗi khổ 4 dòng, mỗi dòng 4 chữ, rất đơn giản, miêu tả một cảnh mắt thấy tai nghe ở một góc chợ tết rất ấn tượng với cảm xúc sâu lắng. Ý nghĩa tường minh của bài thơ xem ra rất rõ ràng nhưng nghĩa hàm ẩn lại rất mắc mỏ: Thời gian lặng lẽ trôi đi “mỗi năm…, mỗi năm…”, năm nào đào cũng nở mà thân phận ông đồ, cảnh đời của một lớp người lại đổi thay phủ phàng, gây cho người đọc mối cảm hoài day dứt khôn nguôi…


1. Kết cấu nội dung: Ý tưởng thơ bài này diễn tiến xuôi thuận theo dòng thời gian. 5 khổ thơ, có thể phân ra 3 ý rạch ròi (cách phân đoạn ở đây khác với sách giáo khoa lớp 8 THCS, chương trình cũ).


- Đoạn 1: Hai khổ đầu (1, 2): Ông đồ làm thuê đắc địa “Bao nhiêu người thuê viết” và được khách hàng “Tấm tắc ngợi khen tài”.


- Đoạn 2: Hai khổ thơ giữa (3, 4): việc làm thuê giờ ế ẩm, ông đồ rơi vào cảnh thất nghiệp.


Một loạt từ ngữ, hình ảnh đối lập giữa hai đoạn thơ trên, được nối với nhau bằng liên từ “nhưng” rất bài bản:


Đông người <-> vắng
Bao nhiêu người <-> người thuê… nay đâu ?
Tấm tắc ngợi khen <-> không ai hay
Mực tàu giấy đỏ <-> giấy buồn không thắm,
mực đọng nghiên sầu
Nét phượng múa rồng bay <-> lá vàng rơi trên giấy


Từ không khí rộn ràng, đông vui, ông đồ được mọi người tôn vinh, từ cảnh có sự đồng điệu, đồng cảm giữa hai phía ông đồ và khách hàng, giữa cái cũ và cái mới, đã chuyển thành không khí buồn tẻ, thê lương, có sự cách biệt giữa hai phía. Nói thẳng ra, đó là sự khước từ: con người mới, xã hội mới không còn muốn dung chứa ông đồ, mặc dù ông kiên nhẫn “ngồi đấy” mà người qua đường “không ai hay”.


“Khổ thơ thứ tư”: Ông đồ vẫn ngồi đấy... ngoài trời mưa bụi bay”. Ở đây có thể xem như cảnh hạ màn cũng được rồi.


- Đoạn 3: khổ thơ cuối “Ông đồ lùi vào dĩ vãng, và nỗi xót xa của tác giả. Khổ thơ 4 dòng, 2 câu. Kết cấu hoàn toàn khác với các khổ trên. Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ “Hồn ở đâu bây giờ?” như xoáy sâu vào tâm can người đọc, làm tăng giá trị của bức thông điệp.


Qua bài thơ, ta thấy một sự đổi thay tang thương. Thật ra cái kết cục này đã được báo hiệu ngay ở khổ thơ đầu. Cách cấu tứ, cách chọn nghề nghiệp, chọn thời điểm, cách xây dựng hình tượng nghệ thuật ở đây thật tài tình, thể hiện giá trị thẩm mỹ cao.


2. Biểu tượng nghệ thuật.


- Dấu hiệu nghề nghiệp: Giấy đỏ – mực tàu.


Lúc vén màn, ông đồ xuất hiện:


Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.


Nếu tinh ý, ta đã nhận ra tín hiệu báo trước cái kết cục của thân phận ông đồ. Ông đã xuất hiện một cách đơn độc, trong thế yếu của một lực lượng suy tàn. Ông đồ đang đi làm nghề viết thuê. Có nghĩa là ông đã làm sai nghề, sai chức năng, sai vị trí. Ông làm “thợ đụng” khi thất cơ, lỡ vận.


Bởi lẽ, chính danh, ông đồ phải là Thầy. Thầy dạy học, là hạng “Nhất sĩ” trong xã hội, ở cái thế quân - sư - phụ, là người dạy đạo thánh hiền, dạy người, dạy đời. Ông luôn nghiêm nghị trong những học đường trang nghiêm, có quyền dạy bảo các đồ đệ đến cửa Khổng sân Trình tầm sư học đạo. Ông luôn được xã hội trọng vọng. Thời trước, muốn có câu đối phải “đi xin chữ”. Muốn “xin chữ” cũng phải khăn đen áo dài, trầu rượu bái thầy. Thầy cho chữ rồi cũng phải tạ ơn thầy.


Thế mà, lúc này thật éo le. Ông đồ ngồi lê trên hè phố “bày mực tàu giấy đỏ” giữa phố chợ đông đúc, xô bồ để bán chữ.


Ôi! từ cái vị thế Thầy thành kẻ làm thuê kiếm sống. Hẳn ông vui khi có “Bao nhiêu người thuê viết” chăng ? Không, mặt ông như bị xát muối. Ngồi đây, lẽ tất nhiên, ông phải tuân theo luật thị trường, là hạ mình xuống, xem khách hàng là thượng đế. Xót xa vô cùng.


Cái nghề mới mà ông chọn báo hiệu lớp người ông đã lỗi thời, không còn đắc dụng nữa. Giá như mô tả ông đồ, nhưng là ông đồ nghèo vào cái buổi thời tàn của nho học trong một lớp học “năm ba đứa”, “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” thì dù có bẽ bàng đi chăng nữa cũng không đến nổi thê thảm như cảnh ông đồ ở trong bài thơ này.


- Dấu hiệu thời gian: Hoa đào nở.


Đó là một khoảnh khắc của năm tháng. Ông đồ làm nghề phụ, nhưng đâu phải có việc thường xuyên, quanh năm suốt tháng. Ông chỉ có việc làm trong đôi ba ngày Tết. Nhưng rồi, trong khoảnh khắc ấy “ông ngồi đấy” mà “qua đường không ai hay”.


Thân phận ấy thật hẩm hiu, mặc dù, ông là ông đồ thứ thiệt, là người tài hoa điệu nghệ, đấy bản lĩnh.


Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.


Cấu tứ làm nổi bật sự tương phản nghiệt ngã giữa hai trạng huống: Hữu tài – bất dụng, hữu tài – lỗi thời.


Phong cách ngôn ngữ, cách cảm nhận của Vũ Đình Liên khác với cách tả thực của Đoàn Văn Cừ trong “Chợ Tết”.


Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.


Chúng ta thấy có sự đối lập giữa hai cảnh đời, hai thân phận trong hai bài thơ làm cho người đọc cũng cảm thương xót xa với ông thầy đồ
Thời gian, bối cảnh ra đời của bài thơ là giai đoạn đầu của thế kỷ XX, khi mà “cái học nhà nho đã hỏng rồi, mười người đi học, chín người thôi” (Trần Tế Xương).


Tháng 4/1943, Hội đồng Hoàn Thiện nền giáo dục bản xứ quyết định bãi bỏ việc học chữ Hán trong các trường Pháp Việt tiểu học ở Bắc kỳ, Trung kỳ; ngày 21-12-1947, toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành qui chế về giáo dục Đông Dương, qui định việc học chữ Nho ở bậc sơ đẳng tiểu học không phải là bắt buộc. Và sau đó, Nam triều có các đạo dụ bãi bỏ khoa cử cũ: 1918, khoa thi Hương cuối cùng ở Trung kỳ; 1919, khoa thi Hội cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Bài thơ cũng xuất hiện trong giai đoạn có cuộc tranh luận về văn học nghệ thuật. Thân phận ông đồ già phản ánh thực trạng của thời đại.
- Biểu tượng ông đồ: Hình ảnh ông đồ xuất hiện trong suốt bài dưới nhiều mã: ông đồ – mực tàu, giấy đỏ – hoa tay – nét phượng múa rồng bay – lá vàng – người muôn năm cũ – hồn.


Theo Vũ Đình Liên thì chính ông đã ngậm ngùi xác nhận rằng ông đồ trong bài thơ của mình chính là “cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn”. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể xem “lá vàng” là một hình ảnh rất đắt của bài thơ. “Lá vàng rơi trên giấy”. “Lá vàng” dùng ở đây, lúc này, có điều gì khác lạ. Nó đã phá thể cái biểu tượng phổ quát trong văn chương – là mùa thu. Nhưng lúc này là lúc hoa đào nở, là ngày tết, là buổi giao hoà giữa Đông – Xuân. Thế mà vẫn còn lá vàng sao ?


Đúng, còn 1 chiếc lá vàng muộn màng, hiếm hoi, dường như vẫn còn nuối tiếc, vẫn muốn níu kéo hơi sống tàn. Và rồi, nó cũng phải rơi rụng. Và quái ác thay, nó đã rơi đúng vào tờ giấy nhỏ nhoi, giữa cái bãng lãng của không gian mùa xuân. Hình ảnh làm tăng vẻ ảm đạm, làm đau nhói con tim ông đồ đang đăm đắm chờ khách.


Chiếc lá ấy chính là hình ảnh ông đồ đơn độc, thời tàn và tờ giấy đỏ kia là cái xã hội mới lạ đang nhen nhóm.


Ở khổ thơ cuối, hình ảnh ông đồ lại được khái quát hơn nhờ nghệ thuật sử dụng ngôn từ.


* Về lượng: ông đồ (1 người) -> những người -> hồn
↓ ↓
* Trạng thái: cụ thể -> trừu tượng
↓ ↓
hiện hữu -> hư ảo


Không phải chỉ một ông đồ lùi về dĩ vãng mà cả những ông đồ, không chỉ một thế hệ ông đồ mà cả muôn năm cũ. Các từ ngữ: hồn, xưa, muôn năm cũ rất phù hợp với ngữ cảnh, với không khí tết nhất, giữa giờ khắc giao hoà của cũ mới, của đổi thay, gợi nhiều xúc động.


Hai dòng cuối “Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ”, âm hưởng vang xa, một cảm tưởng rất nhân văn: vừa thương cảm, vừa tôn vinh vừa nuối tiếc, vừa nhắc nhở nhớ tới cái tinh hoa một thời.


3. Trở lại hình ảnh Ông đồ


- Cũng vào thời điểm bài thơ ấy ra đời, Thạch Lam có truyện ngắn Ông đồ nho, đăng trên báo Phong Hóa (số 171, 21.1.1936) cũng nêu lên thân phận ông đồ:


... “Đến năm cuối cùng, tôi lên mười tuổi. Buổi phiên chợ ấy, ông cụ bày câu đối bán. Nhưng trước mặt ông có một chú khách không biết ở đâu đến, treo các tranh Tàu bán. Tranh đẹp, giá rẻ, vẽ những cô gái hồng hào, xinh đẹp, người ta tranh nhau mua, không biết đến câu đối của ông cụ nữa... Cụ ngồi suốt buổi chợ mà không bán được tí gì.


... Từ năm sau tôi không thấy ông cụ đem bán chữ nữa”.


- 38 năm sau bài “Ông đồ” ra đời, chính tác giả của nó cũng đã trở lại với hình ảnh ông đồ với bài thơ mới. Rồi sau đó tiếp tục thêm 2 bài nữa. Tất cả 4 bài thơ cùng một hình thức (5 khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng, dòng 5 chữ), có cùng một chủ đề, được đặt tên chung là “Bản hợp xướng Ông đồ”: 1/ Tưởng nhớ (1936), 2/ Thủy chung (1974), 3/ Hạnh phúc (1977), 4/ Mùa xuân Cộng sản (không năm tháng). Và “Hồn ở đâu”, cái tín hiệu mơ mơ, màng màng ngày ấy được giải mã trong các bài thơ sau.


Năm nay đào lại nở
..., ông đồ lại hiện ra
..., Bàn tay xưa viết nối
Những nét chữ thân thương
...Một cây đào muôn thuở
Năm, bốn mùa nở hoa
Một ông đồ bất tử
Tay với bút không già...
 
N

ngoc_97cute@yahoo.com.vn

tuy ông đồ già không được người đời yêu mến nữa nhưng ông vẫn kiên trì ,cố gắng ngồi bên lề đường chờ mong sự cưu mang giúp đỡ của người đời . nhưng đâu có một ánh mắt nào để ý đến ông bên lề phố , không một trái tim nào đồng cảm và chia sẻ vs ông . bằng các biện pháp VŨ ĐÌNH LIÊN đã cho ta thấy 1 khung cảnh thiên nhiên thật xót xa , đìu hiu trước tâm trạng của ông đồ: " lá vàng rơi trên giay. ngoai gioi mua bui bay ''
nhung dieu la o day la dang la mua xuan tai sao lai co la vang roi . co le hinh anh la vang roi goi den su tan phai tan lui ve mot thoi ky , 1 lop nguoi trong XH va 1 phong tuc tap quan dep de cua VN la choi cau doi do ngay tet gio cung tro thanh qua khu . hinh anh ong do cung giong nhu hinh anh la vang roi , ong da gang niu keo cuoc doi tham lang cua minh nhung so vs thoi dai moi
thi ong chi con la chiec la ua vang dang roi rung . noi buon ay am tham , no da khien con mua xuan von co suc song ben bi cung tro nen diu hiu xot xa ,. cau tho " ngoai gioi mua bui bay " goi ta tam trang buon tham cua ong do truoc con mua bui nhat nhoa . dau chi la mua bay mua bui nhung no cung du suc xoa sach di dau vet cua 1 lop nguoi .tuy ong do da khong con dc nguoi doi yeu men trong vong nua nhung doi vs nha tho thi hinh anh ong do van luon khac sau trong trai tim minh.
 
N

nguyenthanhle7a1@gmail.com

dfgdhgjhjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjj
 
Last edited by a moderator:
N

nguyenthanhle7a1@gmail.com

fgdhgjhjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjj
 
Top Bottom