phân tích văn bản lí dời đô và bàn luận về việc học

C

cajbap

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

mọi người ơi giúp mình 2 bài này zoi nhak:)
mình cần gấp ak
câu 1 : phân tích mục đích của việc dời đô của lí công uẩn trong văn bản Chiếu dời đô.
câu 2 : phân tích mục đích hướng và tác dụng của việc học qua văn bản bàn luận về phép học

giúp mình nhanh nhak thu 5 thi oy mình thi tap làm văn chứ hum fai thi viết văn nên hum cần chặt chẽ lam
 
Last edited by a moderator:
G

ga_cha_pon9x

mọi người ơi giúp mình 2 bài này zoi nhak:)
mình cần gấp ak
câu 1 : phân tích mục đích của việc dời đô của lí công uẩn trong văn bản lí dơi` đô
câu 2 : phân tích mục đích hướng và tác dụng của việc học qua văn bản bàn luận về việc học

giúp mình nhanh nhak thu 5 thi oy mình thi tap làm văn chứ hum fai thi viết văn nên hum cần chặt chẽ lam
Sao lại là văn bản lí dời đô hả bạn,chiếu dời đô chứ
 
G

ga_cha_pon9x

Mục đích của việc dời đô ở trong văn bản cái phần ''muôn dân không chịu cảnh đói khổ ngập lụt...'' đấy bạn,rồi bạn triển khai ra
 
T

tuanvy0808

Nước Việt Nam chúng ta là nước truyền thống đấu tranh dựng nước và cứu nước , trải qua hàng ngàn năm, nước VN đã xuất hiện những vị vua , vị tướng lỗi lạc tài ba , anh minh như Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn trong bài chiếu dời đô, hịch tướng sĩ.
Một trong những vị vua tài giỏi , lỗi lạc của đất nước đó là Lí Công Uẩn , ông là người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lý ở nước ta . Ông là người thông minh, nhân ái , yêu nước thương dân , có chí lớn và lập được nhiều chiến công . Lí Công Uẩn luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân được ấm no, hạnh phúc . Chính vì thế , ông nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ . Vì ông muốn đóng đô ở nơi trung tâm , mưu toan nghiệp lớn, tính kế muộn đời cho con cháu nên ông đã ban bố chiếu dời đô vào năm 1010 để “trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân ”
Việc định đô lập nước là 1 vấn đề trọng đại phần nào tới tương lai đất nước
Dời đô là khát vọng mong muốn của LCU , của nhân dân, của lịch sử dân tộc . Muốn vậy, việc dời đô là phải tìm một nơi trung tâm của trời đất , địa thế rồng cuộn hổ ngồi. LCU tâm đắc nói tới cái nơi đúng ngôi ĐBNT, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một nơi địa thế rộng,bằng , đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, việc dời đô đã hợp với thiên thời địa lợi nhân hòa .
Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặc rất lớn . Nó đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt . Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời
Tiếp đến là vị tướng Trần Quốc Tuấn , với LCU là một vị vua anh minh, thương dân thì Trần Quốc Tuấn là một vị tướng giỏi, tài ba biết lấy những suy nghĩ, việc làm của mình để khơi dậy lòng yêu nước của các tướng sĩ . TQT tức Trần Hưng Đạo , ông là một vị tướng kiệt xuất của dân tộc biết nhìn xa trông rộng, ông đã nhận biết được âm mưu xâm lược của kẻ thù .
Trần Quốc Tuấn luôn luôn khâm phục những bậc nghĩa sĩ trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân . Ông mượn những tấm gương đó dí nói lên tình hình đất nước ta lúc bấy giờ đang bị giặc Nguyên mông lăm le xâm chiếm thì rất cần những tấm gương hi sinh vì nước để bảo vệ từng tấc đất cho nhân dân . Ông tố cáo tội ác của kẻ thù với mọi nhân dân, với triều đình ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi diều mà sỉ mắng triều đình, ông tỏ rõ chúng là thân dê chó, hổ đói . Ngày ngày nhìn sứ giặc làm nhục triều đình TQT ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa và ông sẵn sàng xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù dẫu cho thân mình phải phơi ngoài nơi cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa , ông cũng cảm thấy vui lòng .
Đứng trước tình cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc , TQT phê phán nghiêm khắc những lối sống hưởng lạc nhưng ông cũng tỏ rõ sự quân tâm đến các tướng sĩ , ông cho họ ăn mặc, xe cộ , thuyền ….. sự quan tâm đó sẽ thắt chặt tình cảm giữa chư và tướng . Nếu các tướng sĩ không nghe theo lời thần chư thì hiểm họa trước mắt thật đau xót : “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt , đau xót biết cừng nào ”
Ông đã chọn thảo cuốn binh thư yếu lược để các tướng sĩ học theo từ bỏ lối sống xa hoa , chuyên chăm vào việc rèn luyện võ nghệ để mọi người giỏi như Bàng Mông nhà nhà đều là Hậu Nghệ để có thể chiến thắng được kẻ thù xâm lược. Thật hả hê khi chúng ta chiến thắng được quân thù , chưa đánh giặc nhưng TQT đã ca khúc khải hoàn chiến thắng “chẳng những thân ta kiếp này đắc chí mà đến các người trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền ”. Lời tâm sự của TQT với các tướng sĩ thật chân thành khiến các tướng sĩ một lòng khâm phục vị tướng tài vì xã tắc mà dám hi sinh , dám chiến đấu .
LCU và TQT đều yêu nước sâu sắc, thương dân , lo lắng cho vận mệnh đất nước . Tuy các ông đã mất , nhưng những điều răn dạy vẫn được con cháu đời nay phát huy, và em cũng tự hào khi được học dưới mái trường mang tên một vị vua Lê Lợi .
 
L

l0n3ly_canby

"Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn là tác phẩm quan trọng có ý nghĩa nhiều mặt: sử học, chính trị học, văn học, địa lý học... Từ góc nhìn triết học, "chiếu dời đô" cho thấy tầm nhìn xa, tư duy sâu sắc của Lý Công Uẩn. Vị vua sáng lập triều Lý này đã nối quan hệ giữa đế đô và tiền đồ của triều đại, của đất nước, nhấn mạnh tư tưởng về hành động chính trị phải căn cứ vào xu hướng phát triển của sự việc và chí nguyện của dân.

Kể từ khi Lý Công Uẩn, ông vua có miếu hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, thời gian đã 990 năm. Trong 990 năm đó, lịch sử đã chứng kiến biết bao thay đổi, tên đất đổi từ Đại La ra Thăng Long (Triều Lý), từ Thăng Long ra Đông Đô (Triều Trần), từ Đông Đô ra Đông Kinh (Triều Lê), từ Đông Kinh ra Hà Nội (Triều Nguyễn), rồi triều đại đã nhiều đổi thay, chế độ đã canh cải, nhưng người dân đất Việt (trừ triều Nguyễn ở trong một hoàn cảnh đặc biệt, chọn Huế làm kinh đô) đều chọn mảnh đất trung tâm của châu thổ sông Hồng này làm quốc đô. Đúng như Lý Công Uẩn trong "Chiếu dời đô" đã nhận định: "Xem khắp đất Việt ta, chỉ có nơi này là thắng địa".

"Chiếu dời đô" là một tác phẩm quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt. Giới học thuật đã nghiên cứu nó trên các lĩnh vực: sử học, chính trị học, văn học, địa lý học,... nhưng nó có giá trị về mặt triết học mà chúng ta cần xem xét.

Nội dung triết học trong "Chiếu dời đô" không phải là những vấn đề thế giới quan, xã hội quan, nhân sinh quan do tiền nhân để lại, mà là những nhận thức, những lý luận về điều kiện của đất đế đô, cả mối quan hệ giữa đế đô với các vùng lãnh thổ khác của đất nước, về cơ sở tư duy của những quyết định và hành động chính trị, những vấn đề mà lúc đương thời còn chưa nhận thức được rõ ràng.

Đế đô phải đặt ở đâu là điều mà các triều đại trước Lý đã suy nghĩ và xác định. Nhà Ngô đóng đô ở Cổ Loa, nhà Đinh và Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư. Sử ghi chép rằng, khi lên làm vua, Đinh Tiên Hoàng đã dụng công chọn đất làm đế đô: "Chọn được chỗ đất hẹp ở Đàm Thôn, vua muốn dựng đô ở đó, nhưng vì thế đất hẹp lại không có lợi về đặt hiểm, nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư (Đại Việt sử ký toàn thư). Tư tưởng chủ yếu của Đinh Tiên Hoàng là chọn nơi hiểm trở làm đế đô và Hoa Lư được ông lựa chọn. Lê Hoàn khi lên làm vua, cũng chấp nhận sự lựa chọn đó và không đặt vấn đề thay đổi.

Hoa Lư là vùng đất bằng phẳng, nhưng chật hẹp và bị bao vây bởi các dãy núi đá vôi dựng đứng, ra vào chỉ có một con đường độc đạo. Hiểm thì hiểm thật, song không có lợi cho việc xây dựng triều đại và phát triển đất nước.

Hai triều Đinh và Tiền Lê ở trong đất hiểm, nhưng luôn trong thế không ổn định. Loạn không phải từ ngoài đánh vào mà là từ trong dòng họ thống trị, từ nội bộ triều đình mà ra. Cảnh vua - tôi, cha - con, anh - em dòng họ thống trị luôn nghi kỵ nhau, giành giật ngôi báu của nhau, ám hại nhau liên tục xảy ra. Đinh Liễn giết em là Hạng Lang lúc Đinh Tiên Hoàng còn sống, rồi Đỗ Thích là bề tôi trong cung giết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn; Lê Đại Hành (Lê Hoàn) vừa mất thì ba con của ông đánh nhau, tranh nhau ngai vàng, rồi Lê Long Đĩnh giết em là Lê Long Việt mới làm vua được ba ngày để tự mình lên ngôi,... Cảnh tượng đó khiến người nào làm vua cũng đều có tâm trạng hoang mang, phải đối phó.

Thực tế trên khiến Lý Công Uẩn phải thay đổi quan điểm về nơi dựng đế đô khi ông mở đầu triều đại nhà Lý. Ông cho rằng quan điểm lựa chọn đế đô của hai triều Đinh và Tiền Lê là có tính chất phòng ngự, cố thủ, thiển cận. Ông đã phê phán: "Hai triều Đinh, Lê vẫn theo ý riêng mình,... cứ đóng yên đô thành ở đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó! Không thể không dời đô". ("Chiếu dời đô"). Và một lập trường khác, một quan niệm khác đã hình thành ở ông.

Không xuất phát từ mục đích phòng ngự mà xuất phát từ sự mong muốn làm sao "để vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh" ("Chiếu dời đô"), Lý Công Uẩn đã hình thành nên các điều kiện của một mảnh đất được chọn làm đế đô. Đó là, nơi có thể mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, nơi trung tâm của đất nước, nơi có thế đất bằng phẳng, cao ráo, không bị thiên tai đe dọa, nơi có sản vật phong phú, nơi có thể tụ hội bốn phương đất nước,... Thành Đại La mà khi chuyển đến ông đặt tên là Thăng Long đã thỏa mãn được các điều kiện trên, vì vậy ông đã lựa chọn.

Nhưng dời đô là vấn đề lớn, nó sẽ gây cho triều đình mới được xây dựng của ông nhiều trở ngại: việc chuyển dời sẽ vất vả, tốn kém, nơi sắp chuyển đến không phải là chỗ hiểm trở, tâm lý lo sợ sự không an toàn xuất hiện. Song trở ngại lớn nhất trong đó là nó trái với thói quen thích yên vị của truyền thống, trái với sự lựa chọn được xem là thích hợp của hai triều đại trước. Khó khăn này có thể là chỗ dựa để cho những người vốn không thần phục có cơ sở để chống đối, thậm chí đi đến kích động tâm lý làm loạn. Ông thuyết phục mọi người bằng cách dẫn ra các tư liệu lịch sử để họ yên lòng: "Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh có đến năm lần dời đô, nhà Châu đến vua Thành Thang cũng có ba lần dời đô". Tuy vậy, ông vẫn chưa thể yên tâm.

Tình thế buộc ông phải tìm ra lý luận làm cơ sở cho chủ trương và hành động thực tế. Lý luận đó đã được nêu ra, trong đó có tư tưởng quan trọng là: "Trên kính cẩn mệnh trời, dưới theo ý chí của dân, nếu thấy tiện lợi thì thay đổi ngay" ("Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải"). Luận điểm này vừa là sự kế thừa tư tưởng của quá khứ, vừa là sự đúc kết lịch sử, thể hiện sự sáng tạo của ông. ở đây cần sự phân tích, lý giải cụ thể.

Viện dẫn đến tư tưởng "mệnh trời" ("thiên mệnh"), nhưng ở đây ông không phải là con người duy tâm thần bí. Trong truyền thống của triết học phương Đông, khái niệm "mệnh trời" có nhiều nghĩa, có nghĩa là mệnh lệnh của ông trời có nhân cách, nhưng đồng thời cũng có nghĩa là xu hướng vận động tất yếu của sự vật khách quan. "Mệnh trời" trong "Chiếu dời đô" thuộc nghĩa thứ hai. Lý Công Uẩn dùng tư tưởng "Mệnh trời" chỉ có ý là: dời đô là việc tất yếu, có dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La thì mới có điều kiện làm cho triều đại vững bền, đất nước hưng thịnh.

Nêu ra tư tưởng "theo ý chí của dân" thể hiện quan điểm chính trị của ông khác với hai triều Đinh và Tiền Lê. Lý Công Uẩn không những nói tới dân mà còn nói tới "dân chí". Dùng khái niệm "dân chí" là có ẩn ý bên trong. Cùng một loại tư tưởng về dân có các khái niệm: "dân tâm", "dân vọng", "dân chí". "Dân tâm" là lòng dân, nhưng lòng dân có lúc thế này, có lúc thế khác. "Dân vọng" là "sự mong mỏi của dân", thường chỉ tâm trạng mong đợi bề trên biết đến đời sống khổ cực của dân. Còn "Dân chí" là ý chí đã dựa trên cơ sở hiểu biết của dân, có ý nghĩa về mặt nhận thức luận. "Nhân dân chí" là dựa theo ý chí đã có cơ sở nhận thức của người dân. Tính tất yếu vì vậy càng rõ.

"Trên kính cẩn mệnh trời", "dưới theo ý chí của dân", ở trong một câu như là hai vế của một tư tưởng, nhưng thực ra chỉ là một. "Mệnh trời" ở đây cũng là "chí dân". Thiên "Thái Thệ, trung" trong sách "Thượng Thư" từng nói: "Trời trông thấy là ở dân ta trông thấy, trời nghe thấy là ở dân ta nghe thấy" ("Thiên thị tự ngã dân thị, Thiên thính tự ngã dân thính"). Riêng "chí dân" đã là sức mạnh, "chí dân" đó còn phù hợp với xu hướng diễn biến khách quan tức là "mệnh trời" thì sức mạnh đó càng được nhân lên gấp bội. Câu "Trên kính cẩn mệnh trời, dưới theo ý chí của dân, nếu thấy tiện lợi thì thay đổi ngay", có nghĩa là phải dời đô ngay, vì đó là sự tất yếu, là thể theo ý chí của người dân.

Nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa đế đô với tiền đồ của triều đại, của đất nước, nêu lên những yếu tố cần thiết làm tiêu chí cho việc lựa chọn nơi làm đế đô của một nước, nhấn mạnh tư tưởng về hành động chính trị phải căn cứ vào xu hướng phát triển của sự việc và chí nguyện của dân và nêu lên lý lẽ: nếu thấy tiện lợi thì thay đổi ngay,... cho thấy Lý Công Uẩn là người có tầm nhìn xa, có tư duy sâu sắc. Tư duy đó không phải bất cứ một nhân vật lịch sử nào của dân tộc cũng đều cảm nhận được. Tư duy đó không thể không xem là có giá trị về mặt nhận thức luận triết học.

Các sử gia phong kiến Việt Nam tuy còn chê trách ông ở mặt quá tín ngưỡng vào đạo Phật, chê trách cơ cấu tổ chức của triều đình ông không phù hợp với quan niệm của họ, nhưng tất cả đều thừa nhận ông là người sáng suốt. Nhà sử học Lê Văn Hưu nói: "Lý Thái Tổ lo tính lâu dài... nên noi theo họ Lý (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nói: "Lý Thái Tổ biết nghĩ xa hơn Lê Đại Hành". Sự nhận định của họ là có cơ sở khách quan.

"Bài chiếu" ra đời trước lúc diễn ra việc dời đô. Những phân tích và nhận định trong lúc ấy đang còn ở dạng giả thiết, song sự việc diễn ra dưới triều đại ông cũng như dưới các triều đại nhà Lý tiếp theo, cho thấy giả thiết đó từng bước trở thành hiện thực. Sự tiện lợi mọi mặt của đất Thăng Long đã làm cho triều Lý vững vàng về mặt chính trị, hùng mạnh về mặt quân sự, phát triển nhanh về mặt kinh tế, văn hóa, đạt đến mức độ phồn thịnh chưa từng có trong lịch sử trước đó. Nếu xét về mặt mong muốn chủ quan thì triều Lý cũng như các triều Đinh, Tiền Lê đã qua, đều muốn cho dòng họ mình trị vì được lâu dài, nhưng triều Đinh chỉ được hai đời vua và kéo dài 13 năm (968-980), triều Tiền Lê được ba đời vua và kéo dài được 29 năm (981-1009), còn triều Lý thì trải qua chín đời vua (kể cả Lý Chiêu Hoàng) với thời gian 216 năm (1010-1225). Triều Lý trường tồn như vậy có nguyên nhân ở việc dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.

Theo đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội ngày càng có vị thế quan trọng trong cả nước và khu vực, nhưng dù Hà Nội có phát triển như thế nào ở nay mai, cũng không thể quên được tiền thân của nó là Thăng Long mà người đặt nền tảng đầu tiên là Lý Công Uẩn.

990 năm, 1.000 năm hay đến các tuổi tròn lớn hơn nữa của Thăng Long - Hà Nội trong tương lai, nếu xét đến ngọn nguồn của đất quốc đô, người ta không thể không nhớ tới tư duy triết học sâu sắc và con mắt nhìn xa trong "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn.


đây là đề 1..bơ đợi tớ tìm nốt đề 2 nha!:D
 
S

sakuraaaaaa

mọi người ơi giúp mình 2 bài này zoi nhak:)
mình cần gấp ak
câu 1 : phân tích mục đích của việc dời đô của lí công uẩn trong văn bản lí dơi` đô
câu 2 : phân tích mục đích hướng và tác dụng của việc học qua văn bản bàn luận về việc học

giúp mình nhanh nhak thu 5 thi oy mình thi tap làm văn chứ hum fai thi viết văn nên hum cần chặt chẽ lam
Bạn ơi, phải là Bàn luận về phép học chứ.
Sao tên tác phẩm bạn viết sai vậy********************************************************????????
 
S

severussnape

Lên nào :D

Chà, vậy thì mình xin "hốt" đề số 2 =)
Kể ra các bạn viết hay đấy :)

Bàn luận về phép học (Luật học pháp) là một đoạn trích thuộc bài tấu đề cập đến vấn đề chấn hưng trị nước mà Nguyễn Thiếp gửi lên vua Quang Trung. Mặc dù chỉ là một đoạn trích, nhưng Luật học pháp lại có ý nghĩa độc lập, lập luận chặt chẽ rõ ràng, thể hiện ý cụ thể. Thêm nữa, do đường lối tư duy chuẩn mực, lời văn sắc bén, rõ ràng rành mạch, đoạn trích vẫn nói lên phần nào "tư tưởng mục đích của con đường học vấn". Từ đó tác giả đã nêu lên một phép học thích hợp: học phải kèm theo hành, mới có ích trong việc rèn luyện con người đồng thời mang lại yếu tố tích cực cho tương lai nước nhà. Nguyễn Thiếp thể hiện tư tưởng ấy xuyên suốt văn bản nghị luận này, đặc biệt đoạn trích mang nét đặc trưng của nguyên tắc cơ bản trong văn nghị luận.

Phần một, tác giả liền đề cập đến vấn đề mục đích chân chính của việc học: học để làm gì?Đó chính là: ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học không nắm rõ đạo. "Đạo" đích đến của sự học hành chăm chỉ cần cù, đạo làm người. Nói rộng hơn, đó là quan hệ tam cương ngũ thường: gia đình, bản thân, xã hội. (đây là mối quan hệ phổ biến trong thời phong kiến bấy giờ). Tóm lại, nền chính học tác giả đề cập: học để làm người, lấy đạo đức và cống hiến cho tổ quốc.

Luận điểm hai, tác giả đang phê phán, vạch trần bộ mặt của phép học lệch lạc sai trái không chính quy. Đầu tiên, nền chính học đã thất truyền, và kết quả nó mang lai là "nước mất nhà tan". Tiếp tục nhấn mạnh vào khía cạnh: mục đích của người đi học hiện thời, thiếu cả đạo đức và tài năng. Đó chính là cái sai lớn nhất, hậu quả khôn lường, không chuộng đạo đức, hướng thiện, thực tài, không dùng việc học để lập công đức cho tổ quốc mà lại học "tủ". Ngược hẳn với nền học chân chính, cầu danh lợi, cầu chức để đạt được mục đích cá nhân. Không chỉ sai về mục đích mà đến cả cách học cũng sai. Thay vì dùi mài kinh sử, ngày đêm nghiền ngẫm sách giấy, các "sĩ tử" chỉ lo học tủ, hình thức, thuộc làu làu dù không hiểu gì hết. Cốt sao cho thi chép liền tù tì ra là đỗ, thành quan. Giả sử những kẻ này giữ vai trò trụ cột trong bộ máy nhà nước thì hậu quả liệu có nhỏ? Không hề, uy tín, sự tồn tại của họ hoàn toàn khác với bề ngoài luôn ra vẻ nhiều đức tài. Tất cả chỉ phụ thuộc từng vào lời nịnh hót của họ, vua chúa thì tầm thường, "ưa nịnh" nên quan lại kiểu này ngày càng nhiều. Rồi sự "hư danh" "hư vinh" mặc sức đua nhau hoành hành, kéo theo cả triều đình ngày càng thấp kém. Nguyễn Thiếp đã lập luận khá lô gíc, rằng chẳng mấy chốc, thảm cảnh nước mất nhà tan sẽ xảy ra.

Như vậy, nhà văn hoàn toàn có thể đi đến luận điểm tiếp theo: phải khôi phục lại nền chính học chân chính. Vậy làm thế nào? Việc học cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ: chiều sâu, chiều rộng. trường lớp, hình thức học, tìm hiểu giao lưu để tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người đi học. Như vậy không chỉ giúp khôi phục lai nền chính học, mà còn nâng cao được tầm hiểu biết, việc chọn lọc nhân tài quả không còn gì là khó khăn. Có nghĩa là: việc học phải được phổ biến rộng rãi, phải mở thêm nhiều trường, tạo điều kiện để ai cũng có thể đi học.Bởi lẽ, trong xã hội xưa, chỉ có con của quần thần gia thanh trong triều đình mới được đi học (mục đích của việc xây Văn Miếu-Quốc Tử Giám cũng vì mục đích này). Học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản nhất mới có tính chất nền tảng. Điều này mới có thể vun đắp những kiến thức, hiểu biết sâu xa hơn cho học sinh, rất quan trọng trong phép học chân chính. Lại nói tiếp về phương pháp học, không thể ngay từ đầu đã viết luận văn, chữ nghĩa vần thơ khó.... mà phải tuân tự từ dễ đến khó. "Lấy tiểu học bồi lấy gốc, (ý chỉ Tam tự Kinh), rồi tuần tự đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Nhất thiết phải học rộng nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản tất yếu. Vì học rộng, nhưng cần có sự chủ động với nguồn kiến thức này, học được gì phải nắm chắc, không được quên. Muốn thể phải tóm tắt được ý chính, rồi chắt lọc, tránh để tản mạn sáo rỗng. Nếu suy ra được quan điểm riêng biệt sau mỗi bài học, điều này rất quan trọng. Ấy mới thực là học. Tuy nhiên, theo Nguyễn Thiếp, kiến thức từ sách vở chưa đủ. Phải có sự thực hành, rút ra từ thực tế. Học mà chỉ như "con mọt sách" liệu có ích cho ai? Đem lí lẽ nói suông liệu thuyết phục được ai? Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng rất dè chừng điều này: biển học tràn lan là đáng ngại. Ở đây có sự đồng quan điểm với Nguyễn Thiếp, hoặc ví dụ như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: học đi đôi với hành. Vậy là kiến thức xã hội thực tế và sách vở vải kết hợp với nhau mới đem lại hiệu quả. Nhận thức của Nguyễn Thiếp quả thật sâu rộng, ông đã nhận ra điều tưởng như rất cơ bản nhưng lại có tính chất then chốt trong việc học thời đó. Có lẽ xuất phát từ ước muốn tha thiết một đất nước giàu mạnh hưng thịnh nhiều nhân tài. Đúng như vậy, hạt giống được gieo, chăm sóc công phu đúng cách sẽ đem lại mùa trái ngọt: Đạo học thành người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.

Tuy rằng tiếc cho triều Quang Trung không thể kéo dài, việc hoc hành ,chấn hưng còn nhiều dang dở. Nhưng văn bản vẫn là nền móng khẳng định nền tảng giáo dục đào tạo của nước nhà được phát triển lâu đời.​
 
C

cajbap

Bạn ơi, phải là Bàn luận về phép học chứ.
Sao tên tác phẩm bạn viết sai vậy********************************************************????????
mọi người ơi giúp mình 2 bài này zoi nhak
mình cần gấp ak
câu 1 : phân tích mục đích của việc dời đô của lí công uẩn trong văn bản Chiếu dời đô.
câu 2 : phân tích mục đích hướng và tác dụng của việc học qua văn bản bàn luận về phép học

giúp mình nhanh nhak thu 5 thi oy mình thi tap làm văn chứ hum fai thi viết văn nên hum cần chặt chẽ lam
ban oi minh` coa ghi sai au
chi coa cau nay` minh` có ghi nham` thui ma`k đề đúng mak` phân tích văn bản lí dời đô và bàn luận về việc học
 
G

ga_cha_pon9x

mọi người ơi giúp mình 2 bài này zoi nhak
mình cần gấp ak
câu 1 : phân tích mục đích của việc dời đô của lí công uẩn trong văn bản Chiếu dời đô.
câu 2 : phân tích mục đích hướng và tác dụng của việc học qua văn bản bàn luận về phép học

giúp mình nhanh nhak thu 5 thi oy mình thi tap làm văn chứ hum fai thi viết văn nên hum cần chặt chẽ lam
ban oi minh` coa ghi sai au
chi coa cau nay` minh` có ghi nham` thui ma`k đề đúng mak` phân tích văn bản lí dời đô và bàn luận về việc học
Bạn ơi các bạn đã phân tích rất chi tiết rồi,nếu bạn thấy khó học thì viết những ý chính ra,học thuộc rồi làm bài triển khai ra là được,mình cũng đã áp dụng rồi,rất được đấy
 
Top Bottom