Vũ Đình Liên và Ông đồ

K

kieuoanh2009

tham khảo nhé :
Vũ Đình Liên là tên thật, sinh ngày 15-10-1913 tại Hà Nội. Thuở nhỏ ông theo học trường Bảo Hộ; sau đó là trường Luật.
Có một thời ông dạy tư và đảm nhiệm việc quản lí cho báo Tinh Hoa. Ông từng chủ trương Revue pédagogique và làm tham tá Sở Thương chánh Hà Nội.
Thơ Vũ Đình Liên được đăng rải rác trên các báo : Loa ; Tinh Hoa; Phong Hoá; Phụ nữ Thời đàm.
Vũ Đình Liên từ giã thi đàn rất sớm; chỉ lưu lại rất ít vần thơ mà lại là đôi dòng có giá trị. Bài Ông đồ là xuất phẩm của họ Vũ.
- Trong phong trào thơ mới, Vũ Đình Liên là một hồn thơ đôn hậu, giàu tình người. “Ông đồ” là một tuyệt tác, viết bài “Ông đồ” nhà thơ đã thể hiện niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ, vừa là nỗi tiếc nhớ những cảnh cũ người xưa.
Bài thơ dựng lên hai hình ảnh trái ngược của Ông đồ :
* Ông đồ của một thời được xã hội trọng vọng, lúc mà nền tảng Nho học đang có địa vị vững chắc :
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“ Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
* Thời vàng son không còn nữa, ông đồ giờ đây trở nên lạc lõng, đáng thương ;
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu ...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay,
- Thể thơ 5 chữ được sử dụng một cách uyển chuyển đã được đạt được tình cảm sâu sắc của tác giả, hình ảnh thơ chọn lọc gợi ta gây được ấn tượng mạnh.
Nói chung, bài thơ Ông đồ thể hiện khá tập trung hai nội dung chính trong thơ Vũ Đình Liên : Tâm sự nhớ tiếc một thời gian đã qua và tấm lòng thương mến đối với “ những người muôn năm cũ”.
Bài thơ là một kiệt tác của Vũ Đình Liên và là một kiệt tác của phong trào thơ mới. Bài thơ đã chạm được đến “ mối sầu nhân thế” có tính chất tổng quát của toàn nhân loại. Nó gợi lên trong thăm sâu tâm hồn người đọc bóng dáng của một thời vàng son, đã vĩnh viễn trở thành dĩ vãng. Năm tháng vẫn tuần hoàn : Tết vẫn đến, hoa đào vẫn nở ... Chỉ có đời người buộc phải đổi thay. Cái mất đi ngày qua, nhiều khi khiến chúng ta phải nao lòng.
 
B

bonghongnho_95

Bài thơ lại đan chéo những cặp đối nghịch: cái tất bật của khách qua đường và sự đơn độc của ông đồ, cái buồn thấu xương của kiếp người bên cảnh phố phường rộn ràng mừng xuân mới, và bất nhẫn làm sao, sự lặng lẽ của người đại diện cuối cùng của nền Hán học tàn tạ, lặng lẽ cả lúc rút lui, lại diễn ra ở một nơi ồn ào, trần ai bậc nhất trên thế gian: hè phố ! Cái đám tang tự đưa giữa phố đông hững hờ mà người tri âm duy nhất lại có mặt khi cỗ xe khuất bóng từ lâu rồi !
Bài thơ là lòng thương người và nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Đó là tình cảm gắn bó và trân trọng một lớp người tài hoa, đáng kính của nhà thơ
 
T

thuyhoa17

Đây là 1 vài thông tin về nhà thơ Vũ Đình Liên trích trong Thi Nhân Việt Nam, hi vọng có thể giúp đc em. :)

Vũ Đình Liên sinh ngày 15-10 năm Quý Sửu (1913) ở Hà Nội.
.
.
.
Trong phong trào thơ mới, Vũ Đình Liên là 1 người cũ. Từ khi phong trào ra đời, ta đã thấy có thơ Vũ Đình Liên trên những mặt báo. Người cũng ca tình yêu như hầu hết mọi nhà thơ hồi bấy giờ. Nhưng 2 nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có 1 lần hai nguồn cảm hứng ấy gặp nhau và đã để lại chho chúng ta 1 bài thơ kiệt tác: "Ông đồ". Ông đồ năm năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố. "Ông chính là cái di tích tiều tụy đnag thương của 1 thời tàn".
 
S

sam_biba




Vũ Đình Liên (1913 - 1996) thường được gọi là nhà thơ của "Ông đồ", một trong những bài thơ để lại nhiều âm vang nhất của phong trào Thơ Mới. Nếu phải kể tên 10 nhà thơ tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca này thì có thể chưa có tên ông. Nhưng nói đến 10 bài Thơ Mới tiêu biểu nhất thì không thể thiếu "Ông đồ".


Bài thơ được đánh giá là "một bài thơ tuyệt tác" và được nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ nhiều góc độ: nhịp thơ ngũ ngôn, tính bi kịch, triết lý về thời gian, tình thương người, nỗi buồn hoài cổ, cảm hứng bi ca… Bài thơ đã được dịch sang tiếng Pháp và xung quanh nó có biết bao là đối thoại.

Các bạn văn gọi Vũ Đình Liên là Ông đồ. Ông cũng tự nhận mình là "Ông đồ hiện đại" (lettré moderne). Theo Hoài Thanh, "Ông đồ" là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng tình thương người và lòng hoài cổ và có thể nó còn là hợp lưu của nguồn cảm hứng thứ ba, đó là nghề dạy học. Vũ Đình Liên là một nhà giáo lâu năm. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn viết nhiều sách giáo khoa. Cùng với một số người bạn cũng là nhà giáo, các ông thành lập Nhóm Lê Quý Đôn viết lịch sử văn học từ những năm 60 của thế kỷ trước và dịch các tác phẩm văn học Pháp. Hơn nửa thế kỷ dạy học, năm 1990 ông được nhận danh hiệu Nhà giáo Nhân dân.

Ở Hà Nội có ba địa chỉ gắn bó sâu sắc với Vũ Đình Liên. Đó là Chùa Bộc, ngôi nhà 156B Bà Triệu và 11 phố Hàng Bông. Có thời gian ông sống từ bi, ẩn dật trong Chùa Bộc. Và có một ngày thu vàng nắng của năm 1986, ngôi chùa tĩnh lặng bỗng xôn xao náo nhiệt vì sự đông vui ồn ã khác hẳn ngày thường, khiến những người xung quanh không khỏi tò mò, ngạc nhiên. Đó là ngày bè bạn và các học trò của nhà thơ Vũ Đình Liên tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày ra đời bài thơ "Ông đồ" dưới mái Chùa Bộc.

Thời gian sống ở đây đã khiến ông suy ngẫm rất nhiều về đạo Phật. Vốn là người hướng nội, gần gũi với thập loại chúng sinh, hồn thơ ông càng thấm đẫm tinh thần bác ái của nhà chùa. Ông viết về Phật Bà: "Nghìn mắt không nhìn hết khổ đau/ Nghìn tay nâng chẳng nhẹ u sầu"; về triết lý đời sống theo cảm nhận của riêng ông: Đời người là đau khổ/ tình người là xót thương. Ngôi nhà ở Bà Triệu là nơi ông sống những năm cuối đời. Trên hè phố Bà Triệu, nhiều người thường gặp ông nhẩn nha đi bộ, gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc, vầng trán mênh mông, bên hông lúc nào cũng đè nặng chiếc cặp da đen sờn cũ, đầy ắp sách vở, tư liệu, bản nháp thơ và chắc chắn trong đó không thể thiếu toàn tập thơ Baudelaire bằng tiếng Pháp và bản dịch của ông. Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê đến mức mọi người gọi ông là Bôđơ… Liên. Và có nhà thơ Pháp đã gọi ông là "Baudelaire Vietnamien".

Ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là Gác Lưu xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô. Ông đã lưu giữ được nhiều tấm ảnh, bức tranh và tư liệu văn học nghệ thuật quý hiếm. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba nghệ sĩ: nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái và nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là "Lầu Tình bạn" hay "Bảo tàng Lưu - Liên - Phái". Tại đây có treo đôi câu đối: Nhân loại xây Đền Văn hoá mới - Hoà bình dựng Tháp Đại đồng xưa, do Vũ Đình Liên làm và Bùi Xuân Phái viết. Tại ngôi Đền Văn hoá này, vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu, Hugo, Baudlaire… trầm hương trên bàn thờ lại thành kính toả khói nghi ngút để tưởng nhớ những bậc tài danh của đất nước và nhân loại.

Sinh thời Vũ Đình Liên là một người trọng tình bạn và luôn xót thương những người bần hàn, khổ sở. Có những ngày Tết, ông gói một đùm bánh chưng rồi ra đi không ăn Tết ở nhà. Con cháu đi tìm thì thấy ông đang ngồi ăn cùng với vài người cơ nhỡ ở sân ga. Nhắc đến Vũ Đình Liên, người ta thường nhắc đến "Ông đồ" mà ít người biết tới một chùm thơ về người đàn bà điên khá độc đáo, liên quan đến thói quen của ông. Có thể nói chùm thơ này biểu hiện tập trung phong cách thơ Vũ Đình Liên sau 1945, thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng sâu sắc thơ Baudelaire, từ nghệ thuật cấu tứ cho đến hình ảnh, ngôn từ, âm điệu.

Tết năm Bính Thìn (1977) nhà thơ lên Thái Nguyên ăn Tết với bà con, bạn bè. Khi tàu hoả đến ga Lưu Xá, cách Thái Nguyên khoảng 10 cây số, ông gặp một người đàn bà điên áo quần tả tơi, ngồi bệt dưới sàn tàu. Người điên và nhà thơ nhìn nhau xót thương, một mối tình câm lặng. Ngay đêm hôm đó ông làm bài thơ "Người đàn bà điên ga Lưu Xá": "Người đàn bà điên ga Lưu Xá/ Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi/ Ai vẽ được thiên tài hội họa/ Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời/ Công chúa điên rồ và rách rưới/ Hình ảnh lạ lùng chửa có hai/ Cả tưởng tượng Đông Tây cộng lại/ Khôn dựng nên dù một phần mười/ Bao tải xơ ni lông nát vụn/ Sợi dây thừng buộc mũ rách bông/… Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi/ Đống rác kia xưa đã là hoa… Ai dun dủi và ai sắp đặt/ Một nhà thơ với một người điên/ Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt/ Nhẹ căm thù như muốn làm duyên"… Lúc này trong toa xe mọi người đã xuống hết, không còn ai nữa. Nhà thơ lấy trong túi xách ra một góc bánh chưng, một gói mứt sen nhỏ, hai tay nâng gói quà Tết trao cho người đàn bà điên: "Người nhận quà đưa tay đón tay/ Chẳng rằng chẳng nói mặt như ngây/ Chia tay không một lời hò hẹn/ Hai mặt ảnh hình bốn mắt ghi/… Tôi đi tìm đến những người thân/ Bè bạn cháu con xa với gần/ Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ/ Nhìn mặt người như ngắm hoa xuân/ Còn tôi biết cuộc đời đã trút/ Lên hoa kia sương tuyết nặng dày/ Đời độc ác lòng người bội bạc/ Làm hoa kia thành đống rác này/ Đời sẽ đổi lòng người sẽ đổi/ Sẽ trở về tình xót nghĩa thương/ Hãy trút hết áo quần hôi thối/ Cho thịt da lại toả hương thơm/ Người em Lưu Xá ở đâu đây/ Có thấy ấm lòng xuân nắng hây/ Một đóa hoa tàn nay nở lại/ Thắm hồng trong buổi mới xuân nay".

Mười năm sau, 1987 cũng ở ga Lưu Xá, nhà thơ gặp lại người đàn bà đó, tuy vẫn còn hoang dại nhưng đã bớt phần rách rưới điên loạn. Dưới bóng trăng mờ, người đàn bà nắm tay nhà thơ và đưa tiễn ông đến hai ga sau. Ngay sau đó ông sáng tác bài thơ "Gặp lại người đàn bà điên" ghi lại cảm xúc của mình. Năm năm sau, 1992 người đàn bà đến tìm nhà thơ ở nhà riêng tại phố Bà Triệu. Bây giờ người điên ấy đã là một cô gái đẹp. Một mối tình huyền thoại. Và ông viết tiếp bài thơ "Người điên - Nàng tiên": "Đông Tây, Thi Họa tương phùng/ Cổ kim nghệ thuật tình thương thần kỳ…/ Thịt da trầm tỏa hương bay/ Như hồi đôi tám thơ ngây má hồng". Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhà thơ của tình thương đã nhìn thấy ở "cái xác thối tha ấy" một bông hoa toả hương, một mối tình xưa tinh khiết. Có lẽ đó là cảm hứng bắt nguồn từ nhiều bài thơ của Baudelaire mà ông đã dịch và ngấm vào trong máu thịt (Hãy yêu họ, vì dưới những manh quần rách tã/ Những tấm áo mong manh vẫn là những tâm hồn". Thơ Baudelaire qua bản dịch của Vũ Đình Liên). Cũng như "Ông đồ", xung quanh bài thơ này lại có bao lời bình luận và đối thoại. Họa sĩ Bùi Xuân Phái đã minh họa người đàn bà điên trong một bức tranh kỳ dị và Trần Văn Lưu là người đã cất giữ bức tranh này.

"Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ". Đó là một câu hỏi đầy khắc khoải vang lên như tiếng nói từ nghìn xưa vọng về. "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Nhưng có một người đã "hay" và may sao người đó lại là ông - nhà thơ Vũ Đình Liên, người đã xót xa, lặng lẽ, cảm thông để viết nên bài thơ sống mãi cùng năm tháng

<suu tam>
 
A

aawm8989

Phân tích khổ thơ cuối bài thơ "Ông đồ" - Vũ Đình Liên.
 
Last edited by a moderator:
P

phamhathu12345

Mỗi dịp tết đến xuân về, người Việt xưa thường có thói quen xin chữ để gửi gắm những mong ước, khát vọng cho năm mới. Đó là chữ nho, thứ chữ tượng hình giàu ý nghĩa. Học, hiểu được chữ nho đã khó, viết được cho thật đẹp lại càng khó hơn. Người có hoa tay, viết chữ mà tưởng như vẽ bức tranh. Đầu thế kỉ XX, trên các phố phường Hà Nội còn lưu giữa lại hình ảnh những cụ đồ nho cặm cụi đậm tô từng nét chữ “tròn, vuông tươi tắn” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành đón Tết. Hình ảnh ấy đã in sâu vào tâm trí Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ giản dị mà sinh động:

Mỗi năm hoa đào nở@};-
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua

phan-tich-bai-tho-ong-do
Cấu trúc “mỗi…lại” cho ta thấy sự lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành quy luật quen thuộc. Hoa đào từ lâu đa xtrơe thành sứ giả báo tin xuân. Bởi vậy nói “hoa đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu, giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người đi lại sắm tết.Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm một góc nhỏ thôi “trên phố” nhưng trong bức tranh thơ này, ông đò lại trở thành tâm điểm. điềm đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập vào sự náo nức, rộn ràng của cuộc đời bằng chính những cái quý giá nhất mà ông có. đoạn thơ hai mươi chữ giới thiệu được trọn vẹn không gian, thời gian, nhân vật, tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những khổ thơ sau:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Từ phố đông, không gian được thu hẹp lại quanh chỗ ông đò ngồi viết chữ.Câu thơ ấm ran sự sống bởi từ chỉ số lượng có tính chât phiếm định “bao nhiêu” và tính từ “tấm tắc”biểu đạt sự thán phục, ngợi cn, trân trọng. Ngươì xưa quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền. Học chữ ấy không phải đê kiếm sống mà mục đích cao nhất là để làm người, để có thể phò vua, trợ nước, giúp đời. Đầu thế kỉ XX, tình hình đất nước Việt Nam có sự biến động sâu sắc trên mọi lĩnh vực.Tình trạng “Âu học chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ” rồi khoa thi cuối cùng của triều đình phong kiến đã làm tiêu tan bao giấc mộng vinh quy bái tổ của các đệ tử của Khổng sân Trình. Để tìm kế sinh nhai, họ chỉ còn một cách duy nhất là đi bán chữ như hoàn cảnh của ông đồ trong bài thơ. Dẫu việc đánh đổi chữ thánh hiền để lấy miếng cơm manh áo chỉ là việc cùng bất đắc dĩ, chẳng phải vui sướng, danh giá gì nhưng cái tấm tắc ngợi khen của người đời cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời.Họ súm sít thuê ông viết chữ, trầm trồ trước cái tài hoa của ông cũng có nghĩa là còn biết trân trọng tài năng và cái đẹp.Hai câu tiếp theo, nhà thơ miêu tả cận cảnh, đặc tả nét bút tài hoa của ông đồ:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng mua rống bay

Câu thơ gợi ta nhớ đến một hình ảnh tương tự mà Đoàn Văn Cừ ghi lại được trong phiên chợ tết:
Một thầy khoá ò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân
Người đọc tưởng như nhìn thấy trước mắt bàn tay có những ngón thon dài nhỏ nhắn của ông đồ uốn lượn cây bút.Theo đà đưa đẩy của bút lông từng nét chữ còn tươi màu mực dần dàn hiện ra mềm mại như “phượng múa rồng bay”.Dường như trongnét chữ ấy ông đồ gửi gắm tất cả cái anh hoa, khát vọng và lí tưởng của mình.Chính linh hồn và tâm huyết của người đã làm con chữ sống dậy.Câu thơ của vũ Đình Liên như cũng muốn bay lên với niềm hân hoan trong thời kì hoàng kim của ông đồ.

Nếu cứ tiếp tục nhủ thế thì nhà thơ cũng chẳng có gì để nói. Bất ngờ là đặc trưng cảu cuộc đời. Khổ thơ thứ ba bắt đầu bằng một từ “nhưng” dự báo biết bao thay đổi:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở” lại đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc” kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt, chênh chao, như đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật ra thành câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp chớn, cứ ám ảnh mãi. Người thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên:
Giáy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn của con người khiến các vật vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy điều phôi pha buồn không muốn thắm.Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của con người. Bởi chẳng phải mực và giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao? Quả là:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đau bao giờ
(Nguyễn Du-Truyện Kiều)
Nếu như trước kia, sự xuất hiện của ông đồ làm không gian và lòng người thêm náo nức.Người ta đón nhận ông bằng tất cả sự trân trọng, kính yêu. Thì giờ đây:

Ông đồvẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

“Vẫn ngồi đấy” nghĩa là ông vẫn đến theo tín hiệu của hoa đào, vẫn “bày mực tàu giấy đỏ” trên con phố dông người lại qua sắm tết. Ông chờ đợi cái súm sít, tấm tắc của người đời nhưng đáp lại chỉ là sự thờ ơ đến đáng sợ. Nghệ thuật đảo ngũ cùng kết hợp phủ định “không ai” thể hiện rõ nét cái lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm đến đáng sợ cảu người đời. Họ cứ đi lại, vui vẻ nói cười mà không có chút ý thức nào về sự tồn tại của ông đồ. ông đã bị họ lẵng quên, bị đẩy ra bên lề cuộc sống. Tình cảnh của ông đồ có khác gì những ông cống, ông nghề trong thơ Tú Xương:

Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co

Đã đau đớn chôn vùi giấc mộng vinh quy, bán dần chữ thánh hiền để kéo dài thêm kiếp sống vậy mà lại bị lãng quên ngay trong lúc đang còn tồn tại. Câu thơ có cái già đắng đót cho bi kịch được nhân tới hai lần của ông đồ. Người đọc bỗng nhói lòng bởi dáng ngồi như hoá đá của ông giữa một trời mưa bui bay bay và những chiếc lá vàng đậu trên trang giấy:

Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Ai đó đã nói: Khi con người lui bước thì thiên nhiên chế ngự. Bởi không còn được dùng đến, bởi sự chờ đợi trong yên lặng quá lâu nên lá vàng tha hồ thả mình trên giấy. Ở đây cũng là mưa xuân nhưng nó không “phơi phới bay” như trong thơ thi sĩ lãng mạn Nguyễn Bính sau này. Ông đồ hình như cứ bị chìm lấp, mờ nhạt dần trong màn mưa. Để rồi đến khổ cuối thì bóng hình ông hoàn toàn không còn nữa:

Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đò xưa

Khổ thơ chơi vơi trong cảm giác thiéu vắng, mất mát. Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến nhưng không còn đượng vẹn nguyên như xưa nữa. Ngôn ngữ thơ có sự chuyển đổi tinh tế từ “ông đò già” đơn thuần chỉ tuổi tác thành “ông đồ xưa”, biến nhân vật vĩnh viễn thành ‘cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn” (lời Vũ Đình Liên). Văn minh, Âu hoá kông chấp nhận ông, không cho ông một con đường sống nên ông phải lỗi hẹn với hoa đào.

Bài thơ khép lại bằng tiếng “gọi hồn” thao thiết của tác giả:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đau bây giờ?

“Những người muôn năm cũ” ấy là ai?Là ông đồ, là những ngơừi thuê ông đồ viết chữ hay là một thời đã đi qua nay chỉ còn “vang bóng”(chữ dùng của Nguyễn Tuân)? Dãu là gọi ai thì câu thơ cũng kết đọng bao tiếc nuối, xót xa cho sự phôi pha, tàn tạ của những nét đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc.Nhà thơ gọi để tiêc nuối và gọi để thức tỉnh hãy giữ lấy những giá trị truyền thống ngàn đời mà cha ông đã bao công bồi đắp. Tiếng gọi hồn ấy có giống với tiếng gọi đò u hoài của ông Tú Thành Nam vang trên sông Lấp khi xưa không?

Sử dung thể thơ ngũ ngôn và ngôn ngữ gợi cảm, giàu sức tạo hình, Vũ Đình Liên đã khiến cho tác phẩm của mình có dáng dấp một câu chuyện, kể vè cuộc đời một ông đò từ lúc còn được người đời trân trọng, cảm phục tới khi bị lãng quên. Qua hình tượng ông đồ, tác giả đã bày tỏ thật xuất sắc “lòng thương người” và “tình hoài cổ” của mình.:)
 
Top Bottom