Viết văn

B

byakura

Đây là một cảnh trong đêm khuya, người đàn bà ngồi 1 mình không ngủ, não ruột cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu đương, xuân có trở về mà tình yêu thì mình chỉ được sẻ có 1 tí.
Hai câu thơ mở đầu là 1 cảnh ngộ, 1 tâm trạng tê tái:
''Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
Câu đầu gây cảm giác lặng buồn dù có khua lên hồi trống canh văng vẳng. Âm thanh văng vẳng của tiếng trống từ 1 canh xa đưa lại, không những như thúc giục thời gian trôi qua nhanh mà còn báo hiệu sự vắng lặng và buồn bã. Tiếng trống dồn canh vẫn gợi buồn.
Chính trong bối cảnh ấy đã hiện ra con người của nhà thơ cô độc, trơ trọi:
"Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hồng nhan là sắc mặt hồng, cách hoán dụ chỉ người phụ nữ đẹp: chữ cái nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả. Trơ là lì ra, trơ ra như mất cảm giác. Nước non chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội. Các yếu tố ấy cùng thể hiện 1 tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người tưởng như hóa đá, không còn cảm giác gì nữa. "Hồng nhan" mà đi với từ "cái" thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Nhịp thơ 1/3/3 góp phần nhấn mạnh vào sự tủi hổ của nhà thơ. Người đọc tưởng như nghe được từ hai câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ đa tài, đa tình ấy.
Hai câu tiếp theo:
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Giữa đêm khuya, nhà thơ cảm thấy trống vắng cô đơn. Để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu, mượn chút hương nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh ra. Ngước lên ngắm trăng mà trăng đã xế bóng mà chưa lúc nào tròn. Bà cảm cảnh cho thân phận mình. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một hồng nhan bạc mệnh tài hoa, nhan sắc mà phải chịu cảnh dở dang, cô đơn.
Tủi buông cho duyên phận mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức mong đợi, ước mơ. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng đợi chờ, khao khát nhưng hạnh phúc vẫn mù tăm. Biết đến khi nào vần trăng lại tròn như biết bao tháng ngày đã mơ ước. Càng cô đơn, càng mong đợi mà càng mong đợi thì đau buồn càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.
Hai câu luận liền mạch thơ là lấy cảnh ngụ tình:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
Hai câu thơ là hai hình ảnh mãnh liệt nêu bật một sự mạnh mẽ, phản kháng dữ dội. Rêu từng đám tuy bé nhỏ, mềm yếu mà cũng dám xiên ngang mặt đất, đá mấy hòn thôi mà cũng đâm toạc chân mây.
Hơn ai hết, nhà thơ vốn là người tự tin, yêu đời rất mực. Nhìn rêu đá, bà cũng cảm thấy chúng hoạt động mạnh mẽ, mang một sức sống đặc biệt nhưng cũng nhỏ bé và xa xôi quá. Hai câu thơ thể hiện rõ nét bản sắc, phong cách của Hồ Xuân Hương; bà luôn luôn cảm nhận sự vật dưới một cái nhìn mạnh mẽ hàm chứa một sức sống mãnh liệt dạt dào. Do đó mà cả rêu bé nhỏ, đá mấy hòn vô tri cũng tung hoành xiên ngang, đâm toạc. Dù đã trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng của bà mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Phải sống trong một xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng chẳng chút gì xem trọng yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ "lạnh lùng" chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi buồn riêng đó của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho mọi nữ giới đều được sống, đều được yêu thương, được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng chi. Bởi ngay chính bà, vẫn đang phải gánh chịu một duyên phận hẩm hiu. Do vậy càng nghe tiếng trống dồn, càng ngắm trăng khuya xế bóng, càng nhìn rêu, nhìn đá đâm toạc, xiên ngang nhà thơ càng bị dồn đến cái kết cuộc chán nản, đau xót. Bà viết:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại"
Chữ xuân ở đây ngoài ý chỉ mùa xuân còn hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân. Theo nhịp tuần hoàn của trời đất, mùa xuân đi qua rồi sau đó còn trở lại "xuân đi xuân lại lại" nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ một đi... để rồi "Ngày xanh mòn mỏi má hồng phai pha" (Truyện Kiều). Do vậy mà thấy mùa xuân tươi đẹp trở về, đáng lẽ con người phải hớn hở, vui mừng thì lại chỉ thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ mỗi lần xuân về là một lần tuổi đời chồng chất thêm, tuổi xuân trôi đi hết mà bản thân mình chỉ một cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ có một tí:
"Mảnh tình san sẻ tí con con"
Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi, ấm ức: tình thì chỉ có một mảnh vì phải sẻ chia đâu dược tròn đầy, nguyên vẹn khác chi ánh trăng khuyết xế trong câu thơ trước. San sẻ chứ không phải trọn hưởng mà lại chua xót thay chỉ được san sẻ có chút xíu thôi: tí con con. Đã con con là rất nhỏ rồi mà còn có từ "tí" nghĩa là cực nhỏ. Mấy từ "tí con con" cực tả nỗi niềm riêng chua xót, ngán ngẩm của nhà thơ.
nguồn google
 
B

byakura

Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, "Tự Tình" là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng gặp toàn dang dở bất hạnh. Đó là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.

Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng của không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trắc trở về đời mình, một cuộc đời đầy éo le, bạc phận, lấy chồng hai lần, hai lần làm lẻ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau "hồng nhan bạc phận". Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả:"canh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng" chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhói một tâm sự :

"trơ cái hồng nhan với nước non"

Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ "trơ". Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn cá thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: "nước non". Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. " Chén rượu hương đưa" là một phương tiện. không phải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch :

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh"

Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch :

"Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu".

Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cành si tình. Hồ Xuân Hương nói :

"Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".

Trong quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu "vầng trăngbóng xế khuyết chưa tròn" vừa là hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một "vầng trăng khuyết". Đối với thơ xưa cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong "mời trầu" bà đã ẩn ý như vậy.

Sang câu 5,6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khuyết. Một cảnh thực hoàn toàn :

"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn".

Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống của bà như vẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của "bà chúa thơ Nôm" chứ không phải của ai khác. Rò ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khát khao với cuộc đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là lý giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất của bà, tạo nên những vần thơ châm biến đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu "say rồi tỉnh". Đó lả phương tiên kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu kết :

"Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!".

Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn:"xuân đi xuân lại lại.", điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một "mảnh tình" đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.

Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc "tự tình", ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dang dở, bất hạnh, điều đó tạo nên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập gay gắt với cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, "tự tình" là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu , đồng cảm với cảnh ngộ éo le, trắc trở.
nguồn google
 
B

byakura

Mở bài:
- Giới thiệu chung : Hồ Xuân Hương là 1 nhà thơ lớn của VN. Được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm (Xuân Diệu)
- Giới thiệu về bài thơ "Tự tình"
Thân bài:
- Bài thơ thể hiện nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình và niềm khát khao dc hạnh phúc, được quân tử yêu thương.
*Hai câu đề:
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
+Hoàn cảnh :giữa đêm khuya, hao thức, nghe tiếng trống dồn dập sang canh
+Thấy mình cô độc giữa cuộc đời . PT nghệ thuật sử dụng từ ngữ mạnh, nghe thật thấm thía
*Hai câu thực:
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Nói lên suy nghĩ của nhà thơ:
+ Buồn, uống chén rượu để quên nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh lại càng buồn hơn.( Hình ảnh người con gái lấy chính mình ra làm đồ nhấm )
+ Nhìn trăng thấy trang đã xế bóng mà lại chưa tròn. Vầng trăng như là thân phận của nhà thơ.
"Khuyết chưa tròn" : Chưa tuyệt vọng vẫn còn ấp ủ niềm hi vọng.
*Hai câu luận:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
+ Mở rộng tầm nhìn: những đám rêu trên mặt đất, mấy hòn đá phía chân trời. Những hình ảnh rất thự, ước lệ.
+ Cái nhìn khoẻ khoắn. Có 1 sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định chỗ đứng của mình.
* Câu kết:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con."
+Từ thiên nhiên xung quanh, nhìn lại bản thân mình, cảm thấy ngán nỗi, buồn cho mình, nghịch lí.
+Thời gian cứ trôi qua xuân đi xuân lại lại, 1 sự tuần hoàn liên tục nghe mà ngán ngẩm cho duyên phận của mình. Tuổi xuân trôi qua ma lại ko có tình duyên trọn vẹn
+Sự chia sẻ ít ỏi
+Một nỗi buồn chán và thất vọng.
Kết bài:
-Một bài thơ chứa đựng nỗi buồn và niềm khát khao chân thành
-Trong nền thơ trung đại, lần đầu tiên mới có 1 người phụ nữ dám nói lên điều ấy
nguồn google
 
B

bebongvip_1999

Kể nỗi lòng (tự tình ii) của hồ xuân hương

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng thế kỉ XVIII đã được nhà thơ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian thì bà là người đa tài, đa tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn văn chương. Tuy thế, đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy chồng đều không toại nguyện, vì thế mà bà luôn sống trong tâm trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) có lẽ được sáng tác trong hoàn cảnh ấy.

Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hy sinh. Họ cống hiến hết cho đời mà nào có đòi hỏi quyền lợi chi đâu ngoài tình yêu thương và thái độ trân trọng, cảm thông và chia sẻ?! Nhưng những cái đó hầu như không hề được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu rõ điều đó nên Hồ xuân Hương đã viết nên những vần thơ thấm đẫm một nỗi xót xa, chua chát như trên. Tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn thân phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng day dứt.

Trong một ngày thì lúc hoàng hôn hay đêm khuya thanh vắng thường dễ gợi buồn nhất. Với những người đa cảm như Xuân Hương, đây là thời điểm mình sống thực với lòng mình và chắc là tâm trạng của bà sau bao sóng gió cuộc đời cũng chẳng khác mấy tâm trạng Thuý Kiều khi một mình một bóng trước ngọn đèn khuya: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa!

Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư, trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua :
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Bước chân của đêm tối mới nặng nề, chậm chạp làm sao Chậm chạp nhưng nó vẫn đi, còn tâm trạng buồn thương của con người trong đêm khuya thì lắng đọng và chốc chốc lại như dồn như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng nặng trĩu. Nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thốt thành lời chua chát, đắng cay. Hồng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Nhưng lại gọi với ý mỉa mai là cái hồng nhan thì nữ sĩ đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác. Chao ôi! Biết bao là xót xa, hờn tủi trong cách gọi bất bình thường ấy! Lại còn trơ ra đó với nước non, có nghĩa là đã chai lì mọi cảm giác, cảm xúc chứ không phải là trơ trọi trước cảnh nước non dào dạt sức sống, sức yêu. Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ ở giờ khắc đặc biệt này.

Tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy :
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Muốn mượn chén rượu thơm để say cho quên hết mọi đau khổ, bẽ bàng, lỡ lầm, dối trá... nhưng khổ nỗi không sao quên được! Hết say lại tỉnh mà bao hững hờ, dối trá của người đời vẫn sờ sờ ra đó và nỗi bẽ bàng, đau khổ của mình thì cũng cứ còn nguyên. Ước mong có được một mảy may bù đắp, một chút an ủi mà nào có được ! Vầng trăng bóng xế giống như đời mình đã ngả chiều. Chờ đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ khuyết mãi chưa tròn. Không biết đến bao giờ ước nguyện của mình mới trở thành hiện thực đây hỡi Trời?! Hình tượng vầng trăng khuyết là một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt vời sâu sắc, chứa đựng tâm trạng khắc khoải và khao khát hạnh phúc khôn nguôi của nữ sĩ họ Hồ.

Mạch suy nghĩ của nhà thơ bất chợt rẽ sang một hướng khác. Với tính cách vốn mạnh mẽ, bà không thể đắm chìm mãi trong cảm xúc thương thân tủi phận. Cố say để quên nhưng không sao quên được! Tỉnh thì đau khổ nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng vì mình vẫn còn được là mình. Niềm tin vẫn còn, trước hết là tin ở lòng mình, tin ở khát vọng yêu luôn xoáy cuộn trong tim mình. Nhìn ra phía trước thấy sức sống bất diệt của vạn vật hiển hiện ở ngay trước mắt, ngụ trong rêu, trong đá như một bài học không lời mà tuyệt vời ý nhị và thấm thía:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Rêu yếu ớt là thế mà từng đám, từng đám vẫn xiên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im lìm là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Cách đặt câu đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất diệt của thiên nhiên. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất táo bạo và sáng tạo trong việc dùng từ, đặt câu để diễn tả tối đa ý mình muốn nói. Tính ẩn dụ của hình ảnh vì thế mà có khả năng gợi liên tưởng rất mạnh và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nó như nhắc nhở, thúc giục nữ sĩ nói riêng và phụ nữ nói chung hãy vùng lên giành quyền sống, giành quyền làm chủ cuộc đời mình, số phận mình. Rêu, đá là những vật vô tri mà còn vậy, huống hố mình là con người nên đâu có thể dễ dàng khuất phục trước nghịch cảnh?!

Nhân vật trữ tình cô độc, bất hạnh trong thời điểm và không gian đặc biệt đó dường như chợt bừng thức, muốn làm theo rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội với bao dối trá, lạnh lùng, bao áp bức, bất công... vẫn còn sừng sững. Trong khi trái tim luôn rạo rực cảm xúc yêu đương của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày tỏ và chia sẻ :
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con !
Ngày tháng cứ tuần tự trôi như nước chảy qua cầu. Xuân đi xuân lại lại theo nhịp tuần hoàn của trời đất nhưng trước đôi mắt đầy tâm trạng của nữ sĩ họ Hồ thì nó giống như một sự cố tình trêu ngươi, vì mùa xuân của đời người chỉ có qua đi mà không bao giờ trở lại. Vậy thì có đáng buồn, đáng chán hay không ?! Ngẫm đến mình thì tuổi xuân trôi qua đã lâu, tình thì chỉ còn một mảnh. Cụ thể hoá tình yêu đến như thế thì quả là nữ sĩ không chỉ chán chường mà còn ngao ngán đến cực độ! Tuy nhiên vẫn chưa phải là tuyệt vọng. Tự suy ngẫm thì thấy tấm tình xưa mình dành cho người, cho đời rộng rãi là thế, mênh mông là thế sau bao năm không nhận lại được mảy may bù đắp, sau bao lần bị bội bạc phũ phàng nên giờ chỉ còn một mảnh. Nhưng dẫu chỉ còn "một mảnh tí con con" thì nữ sĩ vẫn muốn tiếp tục đem san sẻ nốt với mong ước chân thành là để cho nhân tình thế thái: "Nếu có yêu nhau thì thắm lại, Đừng xanh như lá, bạc như vôi". Đọc kĩ câu thơ, ta nghe như nỗi hờn giận, đau xót thấm đến tận chân tơ kẽ tóc, đến từng tế bào nhưng nữ sĩ vẫn không nguôi hi vọng vào tình đời, tình người.

Bài thơ "Kể nỗi lòng" in đậm dấu ấn cá tính và phong cách thơ Hồ Xuân Hương, trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hề bi luỵ. Cốt cách cứng cỏi, tâm hồn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa là tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở xưa. Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ vẫn yêu đắm say, thiết tha cuộc sống. Đó là điều cốt lõi rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương - “Bà chúa thơ Nôm”.

------------------------------------------
Nguồn : hoamai1
 
K

kute2linh

Đây là một cảnh trong đêm khuya, người đàn bà ngồi 1 mình không ngủ, não ruột cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu đương, xuân có trở về mà tình yêu thì mình chỉ được sẻ có 1 tí.
Hai câu thơ mở đầu là 1 cảnh ngộ, 1 tâm trạng tê tái:
''Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
Câu đầu gây cảm giác lặng buồn dù có khua lên hồi trống canh văng vẳng. Âm thanh văng vẳng của tiếng trống từ 1 canh xa đưa lại, không những như thúc giục thời gian trôi qua nhanh mà còn báo hiệu sự vắng lặng và buồn bã. Tiếng trống dồn canh vẫn gợi buồn.
Chính trong bối cảnh ấy đã hiện ra con người của nhà thơ cô độc, trơ trọi:
"Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hồng nhan là sắc mặt hồng, cách hoán dụ chỉ người phụ nữ đẹp: chữ cái nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả. Trơ là lì ra, trơ ra như mất cảm giác. Nước non chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội. Các yếu tố ấy cùng thể hiện 1 tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người tưởng như hóa đá, không còn cảm giác gì nữa. "Hồng nhan" mà đi với từ "cái" thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Nhịp thơ 1/3/3 góp phần nhấn mạnh vào sự tủi hổ của nhà thơ. Người đọc tưởng như nghe được từ hai câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ đa tài, đa tình ấy.
Hai câu tiếp theo:
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Giữa đêm khuya, nhà thơ cảm thấy trống vắng cô đơn. Để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu, mượn chút hương nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh ra. Ngước lên ngắm trăng mà trăng đã xế bóng mà chưa lúc nào tròn. Bà cảm cảnh cho thân phận mình. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một hồng nhan bạc mệnh tài hoa, nhan sắc mà phải chịu cảnh dở dang, cô đơn.
Tủi buông cho duyên phận mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức mong đợi, ước mơ. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng đợi chờ, khao khát nhưng hạnh phúc vẫn mù tăm. Biết đến khi nào vần trăng lại tròn như biết bao tháng ngày đã mơ ước. Càng cô đơn, càng mong đợi mà càng mong đợi thì đau buồn càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.
Hai câu luận liền mạch thơ là lấy cảnh ngụ tình:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
Hai câu thơ là hai hình ảnh mãnh liệt nêu bật một sự mạnh mẽ, phản kháng dữ dội. Rêu từng đám tuy bé nhỏ, mềm yếu mà cũng dám xiên ngang mặt đất, đá mấy hòn thôi mà cũng đâm toạc chân mây.
Hơn ai hết, nhà thơ vốn là người tự tin, yêu đời rất mực. Nhìn rêu đá, bà cũng cảm thấy chúng hoạt động mạnh mẽ, mang một sức sống đặc biệt nhưng cũng nhỏ bé và xa xôi quá. Hai câu thơ thể hiện rõ nét bản sắc, phong cách của Hồ Xuân Hương; bà luôn luôn cảm nhận sự vật dưới một cái nhìn mạnh mẽ hàm chứa một sức sống mãnh liệt dạt dào. Do đó mà cả rêu bé nhỏ, đá mấy hòn vô tri cũng tung hoành xiên ngang, đâm toạc. Dù đã trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng của bà mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Phải sống trong một xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng chẳng chút gì xem trọng yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ "lạnh lùng" chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi buồn riêng đó của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho mọi nữ giới đều được sống, đều được yêu thương, được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng chi. Bởi ngay chính bà, vẫn đang phải gánh chịu một duyên phận hẩm hiu. Do vậy càng nghe tiếng trống dồn, càng ngắm trăng khuya xế bóng, càng nhìn rêu, nhìn đá đâm toạc, xiên ngang nhà thơ càng bị dồn đến cái kết cuộc chán nản, đau xót. Bà viết:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại"
Chữ xuân ở đây ngoài ý chỉ mùa xuân còn hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân. Theo nhịp tuần hoàn của trời đất, mùa xuân đi qua rồi sau đó còn trở lại "xuân đi xuân lại lại" nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ một đi... để rồi "Ngày xanh mòn mỏi má hồng phai pha" (Truyện Kiều). Do vậy mà thấy mùa xuân tươi đẹp trở về, đáng lẽ con người phải hớn hở, vui mừng thì lại chỉ thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ mỗi lần xuân về là một lần tuổi đời chồng chất thêm, tuổi xuân trôi đi hết mà bản thân mình chỉ một cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ có một tí:
"Mảnh tình san sẻ tí con con"
Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi, ấm ức: tình thì chỉ có một mảnh vì phải sẻ chia đâu dược tròn đầy, nguyên vẹn khác chi ánh trăng khuyết xế trong câu thơ trước. San sẻ chứ không phải trọn hưởng mà lại chua xót thay chỉ được san sẻ có chút xíu thôi: tí con con. Đã con con là rất nhỏ rồi mà còn có từ "tí" nghĩa là cực nhỏ. Mấy từ "tí con con" cực tả nỗi niềm riêng chua xót, ngán ngẩm của nhà thơ.


nguồn net
 
Top Bottom