Viết bài tập làm văn số 5

T

tvxqfighting

Đề 2:
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng văn võ song toàn, người đã có công lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tên của ông luôn mãi được khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam cùng với những trang sử vàng của dân tộc. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ”-áng văn bất hủ được ông viết trước cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần II (1285) là lời hiệu triệu của toàn quân ra trận, nhưng cũng chất chứa một lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha của vị Quốc công tiết chế này.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, những trang sử hào hùng đã ghi lại biết bao tấm gương của các anh hùng, những vị lãnh đạo kiệt xuất. Họ đã cống hiến cả cuộc đời cho nền độc lập nước nhà… và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một trong số những vị anh hùng như thế! Điểm nổi bật ở Ông là tấm lòng thiết tha yêu nước của Tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện cao độ khi ông tố cáo tội ác của quân thù bằng lời lẽ đanh thép. Với bản chất ngang tàng, hống hách, chúng không chỉ coi thường dân ta, mà còn sỉ nhục triều đình từ vua đến quan: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Chúng ta càng căm tức bọn giặc hơn nữa khi chứng kiến hành động rất tàn bạo, tham lam, nhằm vơ vét của cải của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Thật là một bọn cầm thú, chẵng khác nào dê, *** hổ đói, cú diều. Vậy mục đích của tác giả khi tố cáo tội ác của quân thù là khích lệ lòng căm thù giặc của tướng sĩ, của toàn dân và khơi gợi nỗi nhục mất nước của 1 dân tộc.
Trước nạn ngoại xâm, quốc gia dân tộc đang lâm nguy. Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi lo lắng đó được ông bày tỏ với binh sĩ: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành niềm uất hận ngàn thâu, chứa chan trong lòng khi chưa rửa được nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉ căm thù giặc mà trần Quốc Tuấn còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân.
Một vị tướng tài ba, ngoài lòng yêu nước, họ còn phải biết yêu thương binh sĩ. Và Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, xem binh sĩ như những người anh em khi xông pha trận mạc cũng như khi thái bình: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Thật là cảm động thay cho tình sâu nghĩa nặng của ông đối với binh sĩ. Cũng chính nhờ tình cảm đó đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ.
Yêu thương, lo lắng binh sĩ không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ nhẹ nhành mà là nghiêm khắc, quyết liệt phê phán những việc làm sai trái của họ: thờ ơ, bàng quan trước vận mệnh tổ quốc lâm nguy: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Đó là những hành động hưởng lạc, ham vui, quên mất trách nhiệm của mình đối với vận mệnh tổ quốc: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Những lời giáo huấn của ông thật ý nghĩa, nó đã thức tỉnh biết bao binh lính lầm đường lạc lối trở về con đường đúng đắn, giúp họ nhận thức hơn về độc lập dân tộc. Và hơn hết là chỉ ra những việc cần làm đó là hãy đề cao cảnh giác, đoàn kết với nhau trước nguy cơ bị nước ngoài lăm le bờ cõi, đặc biệt hãy chăm học “Binh thư yếu lược” do chính trần Quốc Tuấn biên soạn cũng là một cách rèn luyện để chiến thắng quân thù
Toàn bộ văn bản “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã chứng minh được một điều rằng: ông là một vị tướng kiệt suất tài ba, không những giỏi về quân sự mà còn văn chương xuất chúng, mấy ai sánh được. Ngoài ra ông còn thấm đẫm một niềm thương dân sâu sắc, là tiêu biểu cho lòng yêu nước lúc bấy giờ. Tác phẩm này của ông xứng đáng là một ánh thiên cổ hùng văn trong nền văn học nước nhà. Tên tuổi của Ông đã gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc.

Nguồn: http://tuoitrequynhon.com
 
L

lolem_theki_xxi

"bình ngô đại cáo" là "án thiên cổ hùng văn" thể hiện thiên tài của NT,đỉnh cao về tư tưởng ,và nghệ thuật của nền văn hiến đại việt trong thế kỉ XV.cùng với "lam sơn thực lục....","quân trung từ mệnh tập","ức trai thi tập","quốc âm thi tập",...."bình ngô đại cáo"đã làm cho ngôi sao Khuê trở nên tỏa sáng và lấp lánh ngàn thu.
mùa xuân năm 1428,cuộc kháng chiến 10 năm chống quân minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi.Nt đã thay lời lê lợi viết "bình ngô đại cáo" tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc "nên công oanh liệt ngàn năm",tuyên bố nước đại việt bước vào 1 kỉ nguyên mới độc lập bền vững,"muôn thủa nền thái bình vững chắc",....
1.nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của "bình ngô đại cáo",là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa lam sơn:
"việt nhân nghĩa cốt ở yên dân,
quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
dấy quân khởi nghĩa vì thương dân,trừng phạt kẻ có tội(điếu phạt),tiêu diệt bọn giặc tàn bạo,đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân),đó lả việc nhân nghĩa.nhân nghĩa vốn là học thuyết của nho giáo đầ cao đạo đức,tình nhân ái giữa con ng` với nhau.NT đã típ thu tư tưởng nhân nghĩa của nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. với NT,nhân nghĩa là iu nước,thương dân,fải đánh giặc để cứu nước,cứu dân ;"triết lí nhân nghĩa cũa NT chẳng wa là lòng iu nước thương dân: cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng,chống ngoại xâm,diệt tàn bạo,vì độc lập của đất nước,hạnh phúc của nhân dân" (Phạm Văn Đồng).trong nhiều bức thư gửi tướng tá giặc minh, NT đã đứng trên lập trường của nhân dân và dân tộc,nêu cao nhân nghãi,cạch trần tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ chúng: "nước mầy nhân dịp họ Hồ lỗi đạo,mượn tiếng là "điếu dân phạt tội"kì thực làm việc bạo tàn,ăn cướp đất nước ta,bốc lột nhân dân ta,thuế nặng hình phiền,vơ vét của quý,dân mọn các làng ko được sống yên. nhân nghĩa mà lại thế ư? "
(lại thư trả lời Phương Chính)
trên lập trường nhân nghĩa, NT đã khẳng định nền văn hóa VN,nền văn hiến Đại Việt và con ng` VN,1 dân tộc văn minh,anh hùng.lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng,NT đại diện cho đất nước chiến thắng đã nêu cao già trị lớn lao của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:
"nhu nước đại việt ta từ trước,
vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
núi sông bờ cõi đã chia,
phong tục bắc nam cũng #
từ triều đinh,lê,lí,trần,bao đời gây nân độc lập,
cùng hán,đường,tống,nguyên, mỗi bên xưng đế 1 phương.
tuy mạnh yếu từng lúc # nhau
song hào kiệtđời nào cũng có".
nền văn hiến đại việt,nền "văn hóa thăng long" được hình thành,xây đựng và phát triển wa 1 wa' trình lịch sử "đã lâu",đã có "từ trước" đằng đằng mấy nghìn năm. đại việt ko chỉ có lãnh thổ chủ quyền "núi sông bờ cõi",mà còn có thuần phong mĩ tục mang bản sắc riêng,có lịch sử riêng,chế độ riêng "bao đời gây nền độc lập",đã từng "xưng đế 1 vương",có nhìu nhân tài,hào kiệt. phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại đinh,lê,lí,trần....,fải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại,Triệu Tiệt tiêu vong,Toa Đô,O Mã Nhi bị giết tươi,bị bắt sống,...) fải có những con ng` "trí mưu tài thức" đã làm nên "thi thư " của đại việt,của nên văn minh sông hồng, thì NT mới có thể viết nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy.nếu như 400 năm về trước,trong "nam quốc sơn hà",lí thường kiệt chỉ mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong "bình ngô đại cáo", NT đã bổ sung thêm 4 nhân tố nữa,đó là :văn hiến,phong tục,lịch sử và nhân tài. diều đó cho thấy ý thức dân tộccủa nhân dân ta đã phát triển trên 1 tầm cao mới trong thế kỉ XV,và đó cũng là tinh anh,tinh hoa của tư tưởng NT.
2. quân cuồng minh đã thừa cơ gây hoạ.
năm 1407,nhà minh sai trương phụ,mộc thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta.lúc đầu thì lấy cớ "phù trần diệt hồ",nhưng sau đó,chúng đã chia cắt đất nước ta thành quận,huyện,thi hành 1 chính sách cai trị vô cùng độc ác :
"quân cuồng minh đã thừa cơ gây hoạ,
bọn gian tà còn bán nước cầu vinh".
NT đã căm giận lên án tội ác vô cùng dã man của quân "cuồng minh".chúng đã tàn sát nhân dân ta 1 các man rợ :
"nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".
sử sách còn ghi lại bao tội ác chống chất của giặc minh trong suốt 1 thới gian dài hơn 20 năm "dối trời lừa dân,đ3 muôn nghìn kế" : rán mỡ ng` để lấy dầu,rút ruột ng` treo lên cây,thui ng` trên giàn lửa,phanh thây đàn bà có thai,...chúng bất nhân dân ta fải xuống biển mò ngọc trai,lên rừng sâu đãi cát,tìm vàng,cống nạp ngà voi,hươu đen,trả biếc...sưu thuế chồng chất,phu phen lao dịch nặng nề.chúng đã tàn fá môi sinh,môi trường,dồn nhân dân ta vào bước đường cùng,vào hố diệt vong:
"bại nhân nghĩa nát cả đất trời
nặng thuế khóa sạch ko đầm núi
(...)vét sản vật,bắt chim trả,chốn chốn lưới chăng
nhiễu nhân dân,bẫy huơu đen,nơi nơi cạm dặt
tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng..."
đằng sau những hành động dã man,mưu mô xảo quyệt,là bộ mặt ghê tỏm lũ ác ôn,bầy wỷ sứ fương bắc đang hoành hành trên xương máu.nước mắt,trên tính mạng và tài sản nhân dân ta :"thằng há miệng,đứa nhe răng,máu mỡ bấy no nê chưa chán". tội ác của giặc minh đối với nhân dân ta,ko thể ghi hết tội,ko thể rửa hết mùi dơ bẩn,trời đất ko thể dung tha,ng` ng` đều cặmận.câu văn cảm thán của NT cắt lên như 1 lời nguyền,chất chứa căm hờn,oán jận,xúc động lay tỉnh hổng ng`:
"độc ác thay,trúc nam sơn ko ghi hết tội
dơ bẩn thay,nước đông hải ko rửa sạch mùi!"
lấy trúc nam sơn,sông đông hải,cái vô hân để nói về tội ác và sự nhơ bần của quân "cuồng minh",cái cùng cực,cái vô cùng, NT đã ghi sâu vào lòng ng`,vào bia miệng đến nghìn năm vẫn chưa fai. NT đã từng "tiển cha lên ải bắc...",từng nếm mật nằm gai,là chứng nhân của lịch sữ gọi vua nhà minh hiếu chiến là "giảo đồng" (trẻ ranh, nhảy ranh),lũ tướng tá giặc minh là đồ "nhút nhát".đó cũng là tiếng nói căm thù,khing bỉ,là ý chí sắt đá chống quân xâm lược ,chống lũ bành trướng phương bắc tham tàn,hiếu chiến:
"thằng nahỹ ranh Tuyên Đức động binh ko ngừng,
đồ nhút nhát Thạnh,Thăng đem dầu chũa cháy!"

( Sưu Tầm )

.
 
Last edited by a moderator:
O

o0albus0o

Đề 1:
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là ánh “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.

"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ‎ Ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.

Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”, giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.


“Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
:D:D
 
O

o0albus0o

Hịch tướng sĩ là một hồi trống trận giục giã 3 quân , tướng sĩ học tập binh thư ; tập rèn võ nhệ ; mài sắc giáo mác , cung tên để chuẩn bị cho một cuộc chiến quyết thắng với kẻ thù . Bì hịch khích lệ và thuyết phục bởi nó vừa chặt chẽ sắc sảo trong lập luận , lại vừa hình tượng , cảm súc và lôi cuốn trong mỗi lời văn .
Hịch ướng sĩ bao gồm một hệ thống luận điểm được tổ chức một cách chặt chẽ , công phu . Bài hịch mở đầu không có phần đặt vấn đề mà mở đầu theo kiểu trực ngôn .những câu văn rắn rỏi và mạnh mẽ ngay từ đầu đã thể hiện cái khí phách của vị tướng quân .

đoạn văn sử dụng lối lập luận theo kiểu vấn đáp . nhũng tấm gương anh hùng đã được sử sách ghi danh liên tiếp chồng lớp mà tạo thành ý chí của doạn văn . lời lẽ của Tần Quốc tuấn khẳng khái và thúc dục khiến người nhe nhất là tướng sĩ không ít người cảm thấy hổ thẹn vì thân là đấng trượng phu mà chưa làm nên công trạng gì cho đất nước , non sông

đoạn văn kế tiếp vừa là lời tâm sự chân tình của vị đại tướng quân vừa là bảng cáo trạng tội ác dã man và phi nghĩa của kẻ thù . những câu văn bồi hồi xúc động như :"ta thường tới bữa quyên ăn , nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa ...'chawcs chắn sẽ có một sức truyền cảm lớn lao . lời văn giục giã có khi lại hoà trong những lời phê phán :'nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo , thấy nước nhục mà không biết thẹn ....hoặc lấy việc chọi gà làm vui , lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển...". những hành động không xứng đáng với một đấng trượn phu như thế tất sẽ dẫn đến cảnh ' chawngr những thân ta kiếp nay chịu nhục , rồi đến trăm năm sau , tiếng dơ không rửa , tên xấu còn lưu , mà đến da thanh các ngươi kungx khỏi mang tiéng là tướng bại trận ". những câu văn vừa giàu hình ảnh , vừa giàu cảm súc đăng đối hài hoà đúng theo lối văn biền ngẫu . hình ảnh và ý tứ hoà hợp vào nhau làm rõ mối quan hệ nguyên nhân , kết quả . từ đó mà đoạn văn khơi lên quyết tâm sắt đá , khơi lên lòng câm hận và khát khao ' ruwar mối thù chung
sau khi tạo được thế và lực vững chắc cho lòng quân trong phần sau của bài hịch , trần quấc tuấn vận hết bút lực để viết những lời văn an ủi vỗ về . những lời văn ấy càng tạo thêm niềm tin bền vững để ba quân quyết chí xông lên " như vậy chẳng những thái ấp ấy của ta mãi mãi vững bền , mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chân , mà vợ con các ngươi cũng được bách niên gia lão ....". lời văn của trần quốc tuấn khéo léo tài tình . ở đó trách nhiệm hay nghĩa vụ , niềm vui hay nỗi buồn của vị tướng quân bao giờ kungx gắn cùng binh sĩ . nó tạo nên một sự hoà đồng và sức cổ vũ lớn lao . người chiến sĩ chắc chắn sẽ cảm thấy vinh quang hơn , có trách nhiệm hơn khi được cùng vị chủ soái " chung lưng đấu cật '' ganhs vác giữ gìn non sông đất nước....:D
 
K

kaitoukid1123

cảm ơn các bạn nhiều nhé!!! ______________________________________________
 
C

chuakiem0

Có ai viết dùm em 1 bài văn Giới thiệu về vẻ đẹp quê hương em giúp em không Em Tks nhiều
 
K

kaitoukid1123

các bạn gợi ý giúp mình mở bài của đề thuyết minh về thể loại Cáo được không? chiều mai mình kiểm tra rồi. cảm ơn nhiều.
 
T

tanpopo_98

Một vài nét về thể Cáo:

Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết
- Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia.
- Cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau
- Cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc. Tác phẩm tiêu biểu: "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi

MB có thể là: Các thể loại văn học cổ ở nước ta thời Phong kiến thực sự rất nhiều, đa dạng và phong phú. Ta đã được tiếp xúc với rất nhiều thể loại nhưng nổi nên trên là Thể Cáo - xuất xứ từ Trung Hoa cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" của thi nhân Nguyễn Trãi là một ví dụ điển hình cho thể loại văn học này của nước ta thời Phong kiến.


:')~ mong nó có thể giúp được bạn, lấy phần trong khung trên để triển khai ý nhé! :')
 
K

kaitoukid1123



MB có thể là: Các thể loại văn học cổ ở nước ta thời Phong kiến thực sự rất nhiều, đa dạng và phong phú. Ta đã được tiếp xúc với rất nhiều thể loại nhưng nổi nên trên là Thể Cáo - xuất xứ từ Trung Hoa cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" của thi nhân Nguyễn Trãi là một ví dụ điển hình cho thể loại văn học này của nước ta thời Phong kiến.


:')~ mong nó có thể giúp được bạn, lấy phần trong khung trên để triển khai ý nhé! :')

cảm ơn bạn nhiều nhé. mình đang cần,mình có thể làm quen để có gì cho mình học hỏi chút không??
 
Top Bottom