Viết bài tập làm văn số 1_Văn thuyế minh

D

donghuong_98

Đề 1: thuyết minh cây lúa Việt Nam

" Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn"
Thật vậy, đất nước Việt Nam_ đất nước của nền văn mih lúa nước. Từ bao đời nay, cây lúa đã trở thành loải cây quan trọng trong đời sống của người Việt, đã gắn bó thân thiết và là 1 phần không thể thiếu của người Viết Nam. Đi khắp vùng miền của đất nước, đâu đâu cũng thấy hình ảnh của cây lúa. Hạt lúa và người dân lao động cần cù là mảng máu không thể thiếu trong bức tranh của làg quê Việt Nam hiện nay va mai sau.
Lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc, là cây thân mềm, rễ chùm, có lá bao quanh thân. Để trở thành cây lúa phải trải qua rất nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là mạ. Các bác nông dân chọn nhữg hạt to, chắc đem ngâm vào nước nóng rồi ủ trong môi trường ấm áp. Vài ngày sau, hạt giống nảy mầm và được các bác các chị đem gieo xuống ruộng. Cây mạ như những đứa trẻ nhỏ run rẩy trước cái rét của vụ mùa đông xuân. Thương cho cây mạ, người đa dùng túi ni-lông dạy kín làm ấm chân mạ. Đây là giai đoạn quan trọng nên người dân phải có nhiều kinh nghiệm biết chăm sóc đủ nước đủ phân nên cây mạ lớn nhanh như thổi, ra dáng những cây mạ trưởng thành. Khi đã đủ lớn, những cây mạ được người dân nhổ lên và bó thành từng bó. Những bó mạ được ví như những cô thiếu nữ thắt đáy lưng ong trong bộ đầm máu xanh quyến rũ. Những cây mạ sau khi được nhổ lên sẽ được cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân, phải sâm sấp nước. Trải qua bao tháng, cây mạ non mới cấy ngày nào đã lớn nhanh như thổi, đã bước sang 1 giai đoạn mới- giai đoạn lúa thời con gái. Nhìn từ xa, cánh đồng trông như 1 tấm thảm xanh khổng lồ. Lại gần những chiếc lá lúa nhọn như những chiếc lưỡi lê nhưng mềm mại hơn, uyển chuyển và duyên dáng hơn . Những cơn gió làm cho những cô lúa lúc đùa giỡn, lúc thì thào kể chuyện ngày xưa Lang Liêu cấy lúa lấy gạo làm bánh chưng bánh giày trong ngày lễ tiên vương. Những lúc như vậy, tám thảm xanh khổng lồ lại nhấp nhô như dải lụa đang uốn lượn 1 cách mềm mại. Và rồi, qua thời gian chăm sóc ân cần, tỉ mỉ của các bà, các chị, cây lúa ngày 1 phát triển hơn, lúa làm đòng, vào sữa, trổ bông và chín vàng. Cây lúa cũng như người Việt Nam, cũng đoàn kết lẫn nhau: mối cây lúa ở trong 1 khóm lúa, mỗi khóm lúa ở trong 1 ruộng lúa, ruộng lúa trong 1 cánh đồng cùng che chở cho nhau. Tấm thảm xanh nagỳ trước giờ đây đã được khoác lên 1 chiếc áo mới màu vàng ruộm. Cây nào cây nấy nặng trĩu, hạt to, chắc nịch. Đó chính là thành quả của người nông dân gặt hái được sau mấy tháng trời khổ công, vất vả.
Lúa đem lại cho ta nguồn lợi lớn về mặt vật chất: là nguồn cung cấp lương thực quan trọng, là nguồn hàng xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao đưa nước ta từ 1 nước nghèo nàn vươn lên đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu lúa gạo. Không những đem lại nguồn lợi lớn về vật chất, cây lúa nước còn có giá trị lớn về mặt tinh thần. Từ hạt gạo trắng ngần, dẻo thơm người Việt ta tạo ra biết bao món ăn ngon và đầy ý nghĩa mà chỉ riêng đất Việt mới có. Trước tiên ta phải kể đến món bánh chưng bánh giầy gắn với câu chuyện truyền về Lang Liêu. Mỗi độ Tết đến xuân về nhà nhà quây quần bên nồi bánh chưng. Thiếu babhs chưng là thiếu đi hương vị của ngày tết. Ngoài ra còn có nhiều các món ăn khác được chế biến từ gạo như xôi, che,… Và có lẽ, người Việt Nam ta khi đi qua cánh đồng xanh với những ruộng lúa nếp thân còn tươi, trĩu bông, phảng phất trong gió mùi thơm của lúa non, ta lại không khỏi nghĩ đến 1 thức quà đắc biệt: Cốm. Tất cả đã tạo nên 1 nền văn hoá ẩm thực của đất Việt mà chỉ có những hạt gạo dẻo thơm mới tạo nên được. Chính vì vậy mà ngưòi dân Việt Nam rất coi trọng lúa gạo và coi đó là “ ngọc thực”. Họ thường nhắc nhở, dặn dò con cháu của mình phải biết tôn trọng chúng vì:
“ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm 1 hạt, đắng cay muôn phần”
Khômg chỉ có vậy. nhắc đến lúa, người ta lại nhớ đến 1 nền văn minh: nền văn minh lúa nước. lúa còn tượng trưng cho sự no đủcủa người dân.
Đúng thật vậy, cây lúa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi người dân chúng ta. Cây lúa đã trở thành 1 người bạn gần gũi, thân thuộc với mọi người dân Việt Nam. Không chỉ đem lại cuộc sống no đủ ma còn trở thành nét đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần của Việt Nam.





like cho minh na!
 
S

subon

Để 1:Cây lúa Việt Nam

Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới.

Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới "bát cơm","hạt gạo".
Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..
- Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng.


Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng thì buổi chiều mộng "ngồi" được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong môi trường mới, đích thực của nó.

Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã "xanh đầu". Mạ cũng có "gan". "Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập "gan" thì dảnh mạ sẽ "chết".

Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay "đứng chân". Cũng như chữ "ngồi" ở trên, chữ "đứng chân" rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã "đứng chân" được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất.

Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách "đẻ nhánh". Nhánh "con" nhánh "cái" thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa "đang thì con gái", thời đẹp nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh.

Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn "tròn mình", "đứng cái" rồi "ôm đòng". Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên". Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì đòng không trỗ lên được, người ta bảo bị "nghẹn". "Nghẹn" là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng...

Ngoài ra cũng có thể bị "ngã", bị "nằm" lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị "ngã" non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa "nằm" dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tôi "nhe răng cười" ông ạ!

Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên.

Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương.

Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt,hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.

Dưới đây là 1 đoạn thuyết minh về cây lúa mà mình sưu tầm được,bạn có thể tham khảo thêm:

Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước.
Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau
Là cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc,lúa cũng là cây lương thực chính của người dân VN nói riêng và người dân châu á nói chung.Cây lúa ,hạt gạo đã trở nên thân thuộc gần gũi đến mức từ bao đời nay người dân VN coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.Từ những bữa cơm đơn giản đến các bữa tiệc quan trọng không thể thiếu sự góp mặt của cây lúa,chỉ có điều nó được chế biến dưới dạng này hay dạng khác.Không chỉ giữ vai trò to lớn trong đời sống kinh tế,xã hội mà còn có giá trị lịch sử,bởi lich sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc VN,in dấu ấn trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước.Trước đây cây lúa hạt gạo chỉ đem lại no đủ cho con người, thì ngày nay nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị.
Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước,hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc.....cho đến nay vẫn là nền kinh tế của cả nước.
__________________
 
S

subon

Đề 2:Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em

"Trâu ơi!Ta bảo trâu trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công"
Vâng! Đi qua bất kì làng quê nào của Việt nam ta cũng đều bắt gặp những chú trâu cần mẫn đang chăm chỉ cày ruộng, hay thong thả gặm cỏ. Con ttrâu như những người bạn thân thiết đã gắn bó rất lâu đời với người nông dân Việt nam cũng như tuổi thơ cũa người Việt.
Trâu là một loài động vật thuộc họ bò, phân bộ nhai lại , có 4 túi dạ dày.Sừng trâu rỗng, bộ
guốc chẵn. Trâu VN có nguốn gốc từ trâu rừng thuần hoá, rất yêu đầm lầy, có bộ lông màu xám, thân hình vạm vỡ, sừng trâu hình lưỡi liềm có hai đai màu trắng. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú.
Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày , trâu loại tốt nhất có thể cày từ 3 đến 4 sào. Ngoài ra còn có thể kéo xe với trọng tải lớn, trâu còn có thể thồ hàng chở người, được dùng như một xe ngựa.
không những thế, trâu còn có mặt ở các lễ hội đâm trâu, chọi trâu . Ví dụ như: lễ hội chọi trâu nỗi tiếng ở Đồ sơn, lễ hội đâm trâu ở Tây nguyên.
Nhắc đến con trâu người ta nghĩ ngay đến con vật to khỏe nhưng hiền lành chăm chỉ . Trên những cánh đồng người ta bắt gặp hình ảnh con trâu cần mẫn kéo cày . Giúp xới tơi những thửa đất cho người nông dân gieo trồng dễ dàng hơn. Có thể nói trâu là 1 người bạn chuyên giúp đỡ nông dân trong nhưng công việc nặng nhọc . Ngoài ra trâu còn có thể kéo xe trong những ngày gặt hái vì nó có tải trọng rất mạnh từ 350 ~~< 750 kg nên là 1 công cụ ko thể thíu của những nhà nông gia
Không chỉ có thế con trâu còn có 1 vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người VN . Hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi bao đời nay . Chính vì vậy nó là 1 phần ko thể thíu của người nông dân. Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non , xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người VN. Chăn trâu thả diều là 1 trong những trò chơi của trẻ em nông thôn , 1 thú vui đầy lý thú . Trên lưng trâu còn có bao nhiu là trò như đọc sách , thổi sáo ..Những đứa trẻ đó lớn dần lên , mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu
ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu . Lẽ hội chọi trâu ở HP là nổi tiếng nhất .Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người.

Chưa rõ lai lịch, nhưng từ lâu lắm rồi người Đồ Sơn đã lưu truyền câu ca dao cổ:

"Dù ai buôn đâu, bán đâu

Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về

Dù ai bận rộn trăm bề

Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu"

Cũng có nhiều ý kiến về nguồn gốc ra đời của lễ hội chọi trâu đưa ra những căn cứ giải thích khác nhau, nhưng ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ "Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ" để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.

Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho "nhân khang, vật thịnh".

Chọi trâu không chỉ đơn thuần "hai con trâu chọi" mà nó đã trở thành tục lệ, tín ngưỡng độc đáo ở vùng biển Đồ Sơn. Người dân đặt vào lễ hội niềm tin và hy vọng bởi những cặp trâu chọi sẽ quyết định thắng thua, thành bại cho phe giáp ngày trước, phường xã ngày nay. Người Đồ Sơn gắn lễ hội chọi trâu với việc thờ cúng thành hoàng làng với mong muốn những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cho nên ngày Hội càng trở nên thiêng liêng, trang trọng. Vào Hội, mọi người được dịp hoà mình vào cộng đồng để tình cảm kết nối bền chặt, gắn bó hơn. Vì thế mà tinh thần đoàn kết, ý thực cộng đồng cũng được duy trì, khẳng định.

Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những "kháp đấu" giữa các "ông trâu". Mỗi "ông trâu" trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các "kháp đấu" giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.
 
Top Bottom