- 14 Tháng chín 2018
- 805
- 1,015
- 181
- 26
- Thừa Thiên Huế
- Đh sư phạm huế


VIẾNG LĂNG BÁC
- Viễn Phương –
- Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, ở tỉnh An Giang.
- Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ.
- Là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước.
II. Tác phẩm:
1.Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, đất nước thống nhất, lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác trong dịp đó, và in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978.
2.Khái quát nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
* Nghệ thuật: Bài thơ có giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc.
3.Bố cục: 4 phần.
- Khổ 1: cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng.
- Khổ 2: cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác.
- Khổ 3: cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấy di hài Bác.
- Khổ 4: Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ
- Câu thơ “con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ là một lời thông báo nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.
- Cách dùng đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân thương, diễn tả trọn vẹn cảm xúc của người con ra thăm cha.
- Cách nói giảm nói tránh: Từ “thăm” thay cho từ viếng, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát.
- Hình ảnh hàng tre: vừa mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc, hàng tre là hình ảnh thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam, đã thành một biểu tượng của dân tộc. Cây tre mang biểu tượng của tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc (“Xanh xanh Việt Nam….bão táp mưa xa đứng thẳng hàng”).
- “Ôi” là từ cảm than, biểu thị niềm xúc động, tự hào trước hình ảnh hàng tre.
2. Sự tôn kính của tác giả khi đứng trước lăng người:
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực và ẩn dụ song đôi là hình ảnh thực: một mặt trời thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng, ngày ngày đi qua trên lăng. Câu dưới là hình ảnh ẩn dụ - hình ảnh Bác Hồ. Mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống cho muôn loài, còn mặt trời Bác Hồ đem lại ánh sáng soi đường chỉ lối cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân tộc. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp, ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn của Bác. Thông qua hình ảnh ẩn dụ trên, tác giả vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ(như mặt trời), vừa thể hiện được sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác.
Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ”: là hình ảnh thực, ngày ngày dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn, trong lòng nặng trĩu nỗi nhớ thương. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân của dòng người vào Lăng viếng Bác.
Dòng người vào lăng viếng Bác kết những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực mà đó còn thể hiện được tấm long thành kính của những người con dành cho người cha vĩ đại của dân tộc.
-Dâng “Bảy mươi chín mùa xuân”: hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng: con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm nên những mùa xuân cho đất nước, cho con người.
3. Cảm xúc trong lăng:
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác.
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sang trong dịu hiền”
Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.
- Ánh sáng của vầng trăng: dịu nhẹ trong lăng gợi sự liên tưởng thật là thú vị. Vầng trăng dường như hiện diện trong suốt cả cuộc đời sống và hoạt động của Bác. Mỗi vần thơ của bác đều vương vấn chút nồng nàn, lưu luyến của ánh trăng: “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.”
-Với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Hình ảnh “vầng trăng” dịu hiền lại gợi cho ta nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Đó cũng là sự biểu hiện rực rỡ, vĩ đại, sao siêu của con người và sự nghiệp của Bác.
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Bác ra đi nhưng hóa thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.
- Dù biết là như thế nhưng vẫn không thể kìm lòng trước sự ra đi của người. Nỗi đau xót đã được nhà thơ bộc lộ rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức khi đứng trước thi thể của Người.
4. Cảm xúc khi rời lăng
Khổ thơ thứ tư diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.
- Câu thơ: “Mai về miền Nam dâng trào nước mắt” như một lời giã biệt.
+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
+ Lời “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn, không muốn xa nơi Bác nghỉ. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa. Bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
+ Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người hoặc chưa một lần nào được gặp Bác.
Muốn làm con chim hót -> âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành.
Muốn làm đóa hoa -> tỏa hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ.
Muốn làm cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
- Điệp từ “muốn làm” biểu cảm trực tiếp và gián tiếp: tâm trạng lưu luyến ước, muốn, sự tự nguyện chân thành của tác giả.
-Hình ảnh cây tre xuất hiện khép lại bài thơ một cách khéo léo. Hình ảnh cây tre trung hiếu nhân hóa mang phẩm chất trung hiếu như con người. Hình ảnh cây tre tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ. Những hình ảnh cây tre ở đây mang nét nghĩa mới so với khổ đầu, đó là cây tre trung hiếu thể hiện ước nguyện của tác giả muốn được trung thành vowisswj nghiệp cách mạng và con đường cách mạng mà Bác đã vạch ra.
* Nghệ thuật của bài thơ:
- Giọng thơ: phù hợp với tình cảm, cảm xúc, giọng điệu vừa nghiêm trang, vừa sâu lắng, vừa đau xót thiết tha, xen lẫn niềm tự hào thể hiện đúng tâm trạng xúc động của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác.
- Giọng điệu ấy tạo nên bởi nhiều yếu tố: Thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh.
+ Thể thơ: 8 chữ, gieo vần linh hoạt, nhịp chậm, thể hiện sự nghiêm trang, thành kính.
+ Khổ cuối nhịp nhanh hơn nhờ các điệp ngữ thể hiện mong muốn tha thiết của nhà thơ.
+ Hình ảnh sáng tạo, vừa thực, vừa ảo, mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng.