phân tích bài thơ viếng lăng Bác
“Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người - Hồ Chí Minh”
Bác Hồ đã vĩnh biệt cả nước đi xa nhưng tình yêu thương của Người vẫn còn mãi mãi. Cả non song thành kính biết ơn Người. tình cảm chân thành và xúc động mà nhân dân dành cho Bác kính yêu đã được nhà thơ Viễn Phương – người con của miền Nam thành đồng tổ quốc gửi gắm trong bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ được viết vào năm 1976 khi đất nước thống nhất, Viễn Phương được ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ.
Trong “Tiếng nói của văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi có viết: “tác phẩm nghệ thuật nào cũng được xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng người nghệ sĩ không chỉ ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào lá thư một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” là tiếng long của đứa con xa về viếng thăm người cha già đã mất. Giây phút đầu tiên đến thăm lăng Bác, tình cảm của nhà athơ bỗng tràol ên xúc động, nghẹn ngào:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Nhà thơ xưng “con” với Bác bởi trong sâu thẳm tấm lòng, Bác như người cha nhân hậu hiền từ. Ở câu thơ này Viễn Phương cũng không dung từ “viếng” mà dùng từ “thăm”. Phải chăng nhà thơ có cảm giác mình được về bên Bác, gặp gỡ Bác. Bác vẫn như còn sống đâu đây. Lúc còn sống, Bác Hồ luôn dành cho miền Nam những tình cảm sâu nặng. Bác thường đặt tay lên trái tim mình mà nói: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”. Tình cảm của Bác đối với miền Nam và miền Nam dành cho Bác thật thiêng liêng:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Từ tình cảm ruột thịt kính yêu vô hạn đối với Bác đã chuyển thành cảm xúc than thiết, thiêng liêng khi nhà thơ nhìn thấy “trong sương hàng tre bát ngát”.
Giọng điệu của những câu thơ tiếp theo thật nhẹ nhàng, tha thiết, sau lắng:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Quanh lăng Bác Hồ có biết bào nhiêu loài cây quý. Song, không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chon hình ảnh hang tre. Hang tre vừa là hình ảnh thực, vừa là hình ảnh ẩn dụ. Cây tre tượng trưng cho xứ sở Việt Nam, tượng trưng cho tinh thần bất khuất của con người Việt Nam. Đến thăm lăng Bác, tác giả như thấy cả dân tộc đang đứng bên Người, vẫn tươi nguyên một sắc xanh Việt Nam. Và trong “bão táp mưa sa” vẫn vẹn nguyên một tấm lòng son sắt thuỷ chung. Hình ảnh hàng tre xanh xanh còn đem đến cho nhà thơ một cảm xúc bình yên thanh than. Trong hình ảnh luỹ tre có bong dáng làng quê mộc mạc, giản dị mà thơ mộng.
Đứng trước lăng của Bác, nhà thơ không ngăn được cảm xúc ngưỡng mộ và kính trọng trước cuộc đời cao đẹp và vĩ đại của Người. cảm xúc ấy được cô đọng vào hình ảnh:
“Ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Cách sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ khá độc đáo. Từ hình ảnh mặt trời vũ trụ toả sang, tác giả đã ngầm ví Bác như mặt trời, một “mặt trời trong lăng rất đỏ”. Cách so sánh này thật ra không phải là mới bởi lẽ đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn ví Bác như mặt trời. Thế nhưng, hình ảnh mặt trời trong câu thơ của Viễn Phương vẫn có sức toả sang gợi lien tưởng đến một cuộc đời vĩ đại mà Bác đã cống hiến cho tổ quốc, cho nhân dân.
Những câu thơ tiếp theo, nhiẹp điệu chầm chậm như bước chân của “dòng người đi trong thương nhớ”. Mỗi tấm lòng của một con người Việt Nam, của bạn bè khắp năm châu bốn bể đã kết lại thành một tràng hoa đẹp nhất kính dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Đó phải chăng là cảm xúc biết ơn mà Viễn Phương đã nói hộ cả dân tộc. Từ “mùa xuân” cũng là một cách nói ẩn dụ vừa gợi lên cuộc sống đẹp, có ý nghĩa mà Bác đã dâng hiến cho dân tộc, vừa diễn tả sự bất tử của hình tượng Bác Hồ.
Vào lăng viếng Bác, tác giả đã hướng toàn bộ tâm tư của mình khi đứng trước lăng Người:
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Suốt cả cuộc đời Bác không ngừng lo cho dân, cho nước, bây giờ Bác mới thật sự thanh thản trong giấc ngủ bình yên. Câu thơ lại xuất hiện một hình ảnh mới: “vầng trăng sang dịu hiền”. Nếu như ở khổ thơ trước nhà thơ ví Bác như mặt trời ấm áp, vĩnh hằng, rực rỡ thì ở khổ thơ này Bác như một vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh vầng trăng gợi liên tưởng đến nét hiền từ bình dị của Bác, gợi nhân cách thanh cao, thanh thản trong tâm hồn Người. Hình ảnh vầng trăng cũng thường xuất hiện trong thơ của Bác. Lúc còn sống, trăng là người bạn của Bác, là nguồn cảm hứng, ánh trăng luôn toả chiếu ngập tràn trong thơ của Bác. Có thể nói hình ảnh mặt trời và vầng trăng đã làm nên nét hài hoà trong con người của Bác: vĩ đại mà bình dị.
Đứng trước hình ảnh của Người, nhà thơ có những cảm xúc bâng khuâng, khó tả:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh trời xanh là biểu trưng cho sự trường tồn, bất tử. Giờ đây đất nước đã được độc lập tự do. Bầu trời xanh mãi mãi là của chúng ta. Tác giả cảm thấy như Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước “Bác sống như trời đất của ta”. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì Bác đã không còn nữa: “mà sao nghe nhói ở trong tim”. Động từ “nhói” diễn tả cảm xúc xót xa, đau đớn của nhà thơ trước sự ra đi của Người. câu thơ có sự hoà quyện giữa thực và mơ, giữa mong ước và thực tế, đó cũng là cảm xúc của tất cả mọi người khi nghĩ đến Bác.
Khổ thơ cuối cùng diễn tả tâm trạng của tác giả trước khi rời xa lăng Bác. Trước hết đó là tâm trạng thương yêu da diết:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Về với quê hương của mình, tác giả lại càng thương Bác nhiều hơn. Những giọt nước mắt tuôn tràn đã nói hộ nhà thơ biết bao nhiêu điều: thương nhớ, biết ơn…
Nhà thơ lưu luyễn không muốn rời xa Bác, muốn được ở mãi bên Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp ngữ “muốn làm” được sử dụng ba làn khiến cho nhịp thơ trở nên mạnh mẽ dồn dập. Những hình ảnh thơ vừa cọ thể, vừa trừu tượng mang ý nghĩa ẩn dị. Hình ảnh hàng tre lại một lần nữa xuất hiện ở khổ thơ cuối gợi biết bao ý nghĩa. Tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách hoá thân vào những cảnh vật ở bên lăng Bác, để được mãi mãi ở bên Người. nhà thơ cũng mong muốn, cũng hứa với Bác rằng mình sẽ sống có ích, trung hiếu, xứng đang với những gì Bác đã cho ta.
Viếng lăng Bác là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ. Bài thơ thể hiện niềm xúc động tràn đầy và lớn lao, tình cảm thành kính sâu sắc và cảm động của tác giả và cũng là của đồng bào miền Nam