Văn9_bài viết số 7

Y

yurihoa

trang ah` đây là bài yuri copy trên web xuống vì đây là bài lớp 9 nên yuri hok nhớ lắm thông cảm nhoa
SANGTHU
Mùa thu là một đề tài muôn thuở của các thi nhân Việt Nam. Nếu như Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu với ba bài : « Thu vịnh », « Thu điếu », « Thu ẩm » ; Xuân Diệu có « Đây mùa thu tới » ; Lưu Trọng Lư có « Tiếng thu », tất cả đều là những bài thơ rất nổi tiếng, thì Hữu Thỉnh cũng có một chớm « Thu sang » rất nhẹ nhàng êm dịu. Trong đó có hai khổ thơ rất hay ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước cảnh sang thu ở một miền quê nhỏ :

« Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Sông được nước dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của hoa cúc, cũng không phải với vị thơm ngon của cốm làng Vòng, mà là với hương ổi thơm giòn ngọt phả vào trong gió thu. Dường như cái hương thơm dịu ấy chỉ thoang thoảng quanh quất đâu đây. Nó không mang cái mùi thơm hăng hắc như hoa sữa, cũng không quá nhẹ để người ta dễ lãng quên. Hương thơm ấy nhẹ nhàng thoảng qua theo gió, đề người ta chợt xốn xang trong lòng. Làn gió se se lạnh của mùa thu cũng rất khác với cái gió tê tái của mùa đông. Nó chỉ khiến ta hơi co người lại một chút và để rồi thảnh thơi đón nhận cả một lưồng khí thu mát rượt trong lòng. Có lẽ, sẽ chẳng ở đâu có cái gió se lạnh ấy ngoài mùa thu của đất Bắc – cái gió se mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu Bắc Bộ. Một hương thơm thu một làn heo may thu đã làm nên cái mở độc đáo cho bài thơ, thậm chí dường như còn độc đáo đến bất ngờ cho cả nhà thơ : “Bỗng nhận ra hương ổi”. Thu đến chẳng hề báo trước! Thu sang từ bao giờ Hữu Thỉnh cũng không biết nữa! Ông chỉ nhận ra một sự bất ngờ mà như đã đợi từ lâu lắm. Thu sang mang theo hơi thửo của mình và mang theo cả cái vẻ thu mơ màng mờ ảo:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó không tan nhanh như sương mùa hạ, cũng chẳng dầy đặc như sương mùa đông. Sương thu là những làn khói mong manh bay vờn nhẹ trên những nãi nhà, ngoài vườn. Sương thu không vô cảm, nó cũng mang hồn người . Sương đang đợi ai, sương đang chờ ai mà sao lưu luyến thế? Từ láy “chùng chình” tạo cho ta cảm giác “dùng dằng nửa ở nửa về”. Đến sương lúc này cũng là sương thu mà Hữu Thỉnh vẫn còn ngẩn ngơ mãi:

“Hình như thu đã về”

Ông thờ ơ quá chăng hay bởi lòng ông đang bối rỗi? Thu về tự bao giờ? Từ hương ổi hay từ làn gió heo may? Thu làm lòng người xao xuyến quá chừng để đến nỗi không biết thu đến thực hay mơ!

Sau một thoáng bỡ ngỡ, nhà thơ như chợt bừng tỉnh- thu đã về thật rồi! Khép lại những hoài nghi, Hữ Thỉnh chẳng còn nghĩ gì ngoài cảm xúc đang dâng trào:

“Sông được nước dềnh dàng,
Chim bắt đầu vội vã”.

Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu đã bắt đầu đập mạnh. Sông vào mùa này chẳng có mưa to gió lớn nên nước cứ “dềnh dàng”. Con sông tràn trề nước mà hình như cứ không chịu chảy, cứ cố nán lại để đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Một hình ảnh thơ thật thi vị và lãng mạn. Nhưng đàn chim thì không thể dềnh dàng được nữa, chúng phải vội vã bay về phương Nam tránh rét. Tất cả đều đang chuyển mình, đang thay đổi. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng thấy sốt ruột, phải “Vắt nửa mình sang thu”. Phải chăng đám mây kia có hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa kia thuộc về mùa thu. Không biết ở đây là mùa thu lưu luyến mùa thạ hay nhà thơ đang mong chờ mùa hạ mà vẫn lưu luyến mùa thu đây? Điêu này thì Hữu Thỉnh thật khác với các nhà thơ khác. Cũng viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến viết: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – có nghĩa là thu của Nguyễn Khuyến đã thực là thu, nó không còn vương vấn chút gì của mùa hè rực lửa. Còn Hữu Thỉnh, ông viết mùa thu nhưng lại là vào lúc giao mùa. Chắc hản phải yêu mùa thu lắm Hữu Thỉnh mới vẽ ra được một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm đất trời, nồng đượm hơi ấm quê nhà như thế.

Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ có nhiều bài thơ thu hay. Nhưng có lẽ sẽ chẳng ai biết mà lại quên được một chớm “Thu sang” của Hữu Thỉnh - một mùa thu nhẹ nhàng, nữ tính, trông qua như một cô thôn nữ mộc mạc mà sao lại đằm thắm khó quên đến thế!
 
Last edited by a moderator:
Y

yurihoa

phân tích bài thơ " Nói với con "

Dàn Ý:

1. Cội nguồn sinh dưỡng của con:
a. Tình yêu thương của cha mẹ:
Bốn câu thơ đầu gợi lên không khí gia đình ấm áp, quấn quýt của gia đình với hình ảnh đứa con, cha, mẹ, tiếng nói, tiếng cười: “chân phải bước tới cha…hai bước tới tiếng cười”. Từng bước đi, từng tiếng nói, từng tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, vui mừng đón nhận. Và cứ thế, con lớn lên từng ngày trong tình yêu thương, trong sự nâng đỡ và mong chờ của cha mẹ.
b. Sự đùm bọc của quê hương: Con được trưởng thành trong cuộc sống lao động và trong thiên nhiên mơ mộng, nghĩa tình.
- Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân tộc: “đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”
- Những từ “cài”, “ken” vừa miêu tả cụ thể các động tác lao động vừa nói lên tình gắn bó, quấn quýt.
- Rừng núi quê hương thật thơ mộng, nghĩa tình: “rừng cho hoa/ Con đường cho những tấm lòng”. Địêp từ “cho” mang nặng nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn lẫn lối sống.
2. Lòng tự hào về quê hương và niềm mong ước của cha:
Qua việc ca ngợi những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” - con người của quê hương, nhà thơ dặn dò con cần kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của quê hương.
- “người đồng mình” sống vất vả và mạnh mẽ. khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu còn cực nhọc, đói nghèo: “sống trên đá…không lo cực nhọc”
- Từ đó, người cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không ai “nhỏ bé” về tâm hồn, về ý chí và mong ước xây dựng quê hương. Những con người ấy bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, đã làm nên quê hương với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp: “người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương, còn quê hương thì làm phong tục”. Từ đó, ngừoi cha mong muốn con tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin mà vững bước trên đường đời: “con ơi tuy thô sơ da thịt…nghe con”. Những lời của người cha vừa toát lên tình cảm yêu thương trìu mến và niềm tin tưởng đối với con, vừa truyền cho con niềm tự hào về quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời.


Bài làm :

đây là đoạn tam sự của nhà thơ y phương
Chắc chắn giúp ta hiểu thêm nhiều về bài thơ nói với con
Đến gặp nhà thơ Y Phương, tác giả của bài thơ “Nói với con” (SGK lớp 9) tại nhà riêng của ông, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên với nhà thơ người dân tộc Tày này. Cánh cửa nhà mở toang, vọng ra tiếng ông đang ngâm một bài thơ tiếng Tày đầy sảng khoái. Khi chúng tôi tới, ông vừa gò lưng lau nhà vừa hát thơ. Ngẩng đầu lên, ông tươi cười, thay cho lời chào đáp lại ông nói:“nghề chính của tôi là tạp vụ, có nghề phụ làm thơ.”

* Đó là lúctôi dường như không biết lấy gì để vịn!

Sốngtrên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người xấu, mà chỉ có những tính xấu như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo, sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành “phân”, để “bón” cho cây cối và làm giàu cho đất cát.
Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa.

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

"Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."

Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Tày.
Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên tôi không biết đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm của tôi đã được đông đảo các em học sinh đón nhận. Với những tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện nay thì một tác phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác phẩm của mình.

* Nhiều giáo viên và học sinh đã đến nhà nhờ giảng về bài thơ

Bài thơ “Nói với con”, dù thấy chẳng có gì đặc biệt hay, nhưng cũng khiến nhiều người băn khoăn . Chẳng hạn trong bài thơ có hai câu:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Đấy là hai câu chốt của bài thơ “Nói với con”. Thế nhưng, nhiều giáo viên dường như chưa hiểu hàm ý của hai câu thơ. Nên khi giảng bài, họ chỉ dựa vào hướng dẫn trong SGK là chính. Thực ra, theo tác giả, ý nghĩa của bài thơ khác hơn nhiều. Nó cao và sâu hơn câu chuyện về tình phụ tử. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Văn hóa dân tộc là tài sản lớn. Giữ cho mình và giữ cho con cháu mình. Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô. Không phải do tôi sợ đánh mất bản bản sắc riêng mà là niềm tự hào chính đáng về văn hóa dân tộc của mình. Tôi tự hào vì tôi là người Tày.


Nhà thơ Y Phương
Có lần, một cậu bé ở tận trong Huế lặn lội ra Hà Nội, tìm đến nhà và hỏi chuyện tôi về bài thơ. Hình như cậu bé chuẩn bị thi vào trường quốc học Huế. Đúng vậy. Cậu học trò ấy đã chọn bài thơ “Nói với con” để làm bài thi môn văn. Và cậu ấy đã đỗ thủ khoa. Một số giáo viên ở trường chuyên ở các tỉnh, cũng đích thân tới tận nhà gặp và hỏi trực tiếp tôi về bài thơ “Nói với con”.
Bài thơ mà mọi người hay băn khoăn thắc mắc nhất là hai câu: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ” nghĩa là sao? Tôi bật cười, cái đó thì quá đơn giản. Có gì đâu, đứa con sinh ra thì phải có cha có mẹ. Đó là khởi điểm của một con người. Một điều nữa “vách nhà ken câu hát” làyếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Văn hóa ăn nhau ở sự khác biệt chứ không nói sự hơn kém.

Câu chuyện với nhà thơ người Tày Y Phương tưởng như không thể dứt ra được. Từ chuyện ông ước mơ đi học các phép thuật để làm thầy tào; chuyện ông đi “buôn lậu” đến những quan niệm của ông về làm thơ. Mời các bạn đón đọc kỳ sau



Bài trên chỉ mang tính chất tham khảo
 
T

trang14

Kíu em nốt đề này =.=
Nếu suy nghĩ của em về tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh khi đọc truyện ngắn " Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng.
 
Y

yurihoa

Cảm nhận tình cha con trong bài thơ "Nói với con" của Y Phương
DÀN BÀI GỢI Ý
A. Mở bài
- Giới thiệu Y Phương : nhà thơ dân tộc Tày, góp vào thơ Việt Nam một giọng thơ lạ, đậm chất miền núi, lối tư duy bằng hình ảnh.
- "Nói với con" là thi phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của Y Phương.
- Khái quát bài thơ : Bài thơ có hai mươi tám dòng với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau tạo sự linh hoạt về nhịp điệu , thể hiện thế giới tình cảm muôn màu , muôn điệu của người miền núi.Bài thơ là khúc tâm tình của một người cha dành cho con, cho bản làng quê hương.....
B. Thân bài
1. Đoạn thơ thứ nhất
NIỀM HÂN HOAN CỦA CHA MẸ KHI ĐÓN NHẬN NHỮNG BƯỚC CHÂN ĐẦU ĐỜI CỦA CON . TỪ ĐÓ NGƯỜI CHA TRAO CHO CON BÀI HỌC LÀM NGƯỜI ĐẦU TIÊN - BÀI HỌC VỀ NGUỒN CỘI .
- Bằng cách sử dụng những hình ảnh mộc mạc "chân phải, chân trái", cụ thể "một bước, hai bước" và giọng điệu thiết tha, lời thơ mở đầu gợi không khí gia đình đầm ấm :
"Chân phải bứơc tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười."
-> Đoạn thơ vẽ lên một hình ảnh thật cảm động, đứa bé đang chập chững bước đi trong sự chờ đón hân hoan của mẹ cha. Thế là sau bao ngày đợi mong, cuối cùng con cũng đã bước đi trên chính đôi chân của mình, đó cũng là bước đầu tiên con khẳng định được mình.Có niềm vui nào hơn đối với cha mẹ lúc này ....
- Chân phải con bước tới cha, được cha truyền cho sức mạnh , niềm tin. Để mai này, bàn chân con mạnh mẽ vượt suối băng rừng. Chân trái con bước đến mẹ, mẹ là nguồn suối mát dịu êm sẽ ban cho con lòng nhân hậu , để mai con khôn lớn trưởng thành một người Tày biết gìn giữ quê hương.Các động từ "chạm", "tới" diễn tả được sự ấm áp, chở che .
-> Bàn chân con tiến về phía cha , được cha đón ; hứơng về mẹ, được mẹ nâng. Vây bọc quanh con là tình yêu thương của mẹ cha. Mái nhà sàn đơn sơ tràn ngập tiếng nói, tiếng cười, còn hạnh phúc nào hơn .
- Trong niềm vui, niềm hạnh phúc đó, người cha trao cho con bài học làm người đầu tiên dẫu con còn bế trên tay, còn nằm trong nôi. Rằng :
"Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát"
* Ba chữ "người đồng mình" cất lên thiết tha trìu mến để gọi những người cùng chung quê hương bản quán. Đây cũng là sự sáng tạo trong ngôn ngữ của Y Phương.Bao nhiêu cảm xúc chất chứa trong từ "yêu", yêu mến và quí trọng người đồng mình; người cha muốn truyền cho con tình yêu ấy qua lời gọi "con ơi".
* Vẫn cách nói bằng hình ảnh, cuộc sống người đồng mình được gợi một cách rõ nét "Đan lờ cài nan hoa". Đó là cuộc sống nhọc nhằn, mặn mồ hôi, kiếm sống còn khó khăn vất vả. Nhưng tuyệt vời thay, "người đồng mình" vẫn rất lạc quan và yêu cuộc sống của mình bằng tình yêu đơn sơ mộc mạc. Dưới bàn tay khéo léo, óc thẩm mĩ của họ , những chiếc lờ dùng bắt cá đơn sơ cũng trở nên tinh xảo với những hoa văn mang dấu ấn vùng miền.Chính tình yêu cuộc sống mà "Vách nhà ken câu hát". Dù khó khăn trong đời sống thường nhật, điệu hát "then", hát "lượn" vẫn bay lên từ mái nhà sàn, trên thang gác, bên bờ suối...hoà cùng tiếng khèn, tiếng sáo vấn vương mời gọi trong những đêm trăng, đêm xuân....
=> Nhà thơ Y Phương đã khéo léo thổi hồn văn hoá dân tộc mình vào những câu thơ mộc mạc như thế.Chính từ đó, người cha muốn con nhận thức rằng :Con không chỉ lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ mà còn sẽ trưởng thành trong cuộc sống lao động , trong cái nôi văn hoá của "ngừoi đồng mình".
- "Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
Vì yêu con, người cha mong muốn con tiếp nhận đầy đủ những điều tốt đẹp nhất từ cái nơi con sinh ra và sẽ lớn lên. Người cha tiếp tục "nói với con" rằng : Rừng núi thiên nhiên với vô vàn sắc hoa sẽ nuôi dưỡng tâm hồn con, đi bất kì đâu con cũng được đón nhận bằng những tấm lòng đôn hậu chở che không chỉ của buôn làng mà cả núi rừng thơ mộng nghĩa tình. Nhân hoá "rừng" và "con đường", nhằm diễn tả sự hào phóng , bao dung của con người và thiên nhiên vùng Cao Bằng .
- Kết thúc đoạn thơ thứ nhất là hai câu thơ tưởng chừng như lạc mạch cảm xúc nhưng thực ra ý nhị vô cùng, sâu sắc vô cùng :
"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời."
Đúc kết tình yêu thương con bằng cách nhắc con về cội nguồn sinh dưỡng, nơi mà mầm sống con được bắt đầu, nơi cho con sự sống, cho con tình yêu....
Ở đoạn thơ này nhà thơ đã mượn lời người cha nói với con về những phẩm chất cao đẹp về người đồng mình.
Đó là những con người sống mạnh mẽ,khoáng đạt ,gắn bó với quê hương.Với giọng thơ tha thiết triều mến nhà thơ lấy "cao ,xa của đất trời ,của núi rừng" để nhấn mạnh người đồng mình dù phải đối phó với những vất vả ,lo toan nhưng luôn có ý chí,kiên cường vượt qua.Bên cạnh đó họ còn là con người rất mực thủy chung với buôn làng ,với quê hương"không chê đá gập ghềnh ...không chê thung nghèo đói" Họ biết sống tình nghĩa,biết chấp nhận và vượt qua những thử thách gian nan bằng nghị lực của mình .Cao đẹp hơn họ là những con người giàu nghị lực ,niềm tin,tuy "thô sơ da thịt " nhưng tâm hồn,khát vọng thật lớn lao cao cả "Chẳng mấy ai..đâu con "
Điều cuối cùng mà cha muốn dặn dò,mong muốn đứa con yêu thương của mình phải biết tiếp nối truyền thống cao đẹp của quê hương -cha rằng trên đường đời con hãy tự tin vào bản thân,hãy lấy niềm tự hào về buôn làng quê hương làm sức mạnh tinh thần để vượt qua mọi thử thách...
Kết bài
Qua bài thơ, người cha muốn dạy bảo, gởi gắm khuyên con trai mình, làm người sống sao cho xứng đáng, phải lấy làm tự hào dân tộc.....(hơi sơ xài nha! cố gắng nha)
 
Y

yurihoa

SUY NGHĨ VỀ TRUYỆN NGẮN "CHIẾC LƯỢC NGÀ" CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG.
Gợi ý xây dựng dàn bài :
A. MỞ BÀI
_ Giới thiệu truyện ngắn "Chiếc lược ngà" và nhà văn Nam bộ - Nguyễn Quang Sáng : Với "Chiếc lược ngà", bằng lời văn dung dị đậm chất Nam bộ, NGuyễn Quang Sáng đưa người đọc trở về những năm tháng ác liệt cuộc chiến tranh chống Mỹ để cùng ông chia sẻ cảm xúc trước vẻ đẹp thiêng liêng của tình cảm gia đình : Tình cha con Ông Sáu - bé Thu...
B. THÂN BÀI
1. Tóm tắt truyện
2. Trình bày suy nghĩ
a) Truyện thể hiện tình cha con - tình cảm gia đình thiêng liêng .
Truyện viết năm 1966 tại chiến trường Nam bộ, viết trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng lại tập trung thể hiện tình người , tình đồng chí, tình cha con..Đặc biệt là tình cha con giữa ông Sáu - người cha cán bộ cách mạng và con gái nhỏ - bé Thu.
* Tâm trạng ông Sáu khi gặp con ( phân tích cảm xúc và sự nôn nóng của ông Sáu trong lần đầu tiên gặp con ; đáp lại sự mong mỏi của ông là thái độ lạ lẫm, hốt hoảng của bé Thu.)
*Tâm trạng ông Sáu trong 3 ngày phép ở nhà : mong mỏi được nghe con gọi mình bằng tiếng "ba" , khát khao rất giản dị rất đời thường mà ông Sáu không có được. Bé Thu nhất định không gọi ông Sáu là "ba" dù bị đặt vào tình huống khó khăn.
* Tình cha con mãnh liệt thức dậy tronglòng bé Thu trước lúc ông Sáu lên đường tiếp tục tham gia chiến đấu ( phân tích tiếng gọi "ba" của con bé - "tiếng gọi ba như xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người...", " nó hôn ba nó cùng khắp...hôn cả vết sẹo dài trên khuôn mặt của ba".
=> Người đọc đi từ bất bình ( khi bé Thu tỏ ra ương ngạnh với ông Sáu), rồi bất ngờ ( con bé nhận ra cha trong phút ông Sáu chia tay mọi người để bước vào cuộc sinh tử) và cảm động ( trước tiếng kêu "ba" mà bé Thu đã ấp ủ mấy năm trời - con bé nhất định không gọi người khác với tấm hình là cha; trước cái hôn của con bé trên vết sẹo của người cha - cái đã khiến cho ba không giống với bức ảnh chụp chung với mẹ, khiến em đã cứng đầu trước người cha mà em yêu quí). Từ đây, trong tình yêu mãnh liệt mà bé Thu dành cho cha còn có niềm tự hào về người cha chiến sĩ dũng cảm ....
b) Truyện thực sự là bài ca về tình phụ tử thiêng liêng sáng ngời trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh .
- "không muốn con thấy mình khóc, ông Sáu rút khăn lau nước mắt.." , người lính - người cha ấy tiếp tục khoác ba lô lên đường ra chiến trường mang theo nỗi nhớ thương con da diết, nỗi ân hận vì đã đánh con, và lời hứa mua cho con gái một chiếc lược ngà.
- Phân tích niềm vui của ông Sáu tìm được một khúc ngà trong một buổi chiều mưa rừng.
- Tình thương và nỗi nhớ được dồn vào việc làm cho con gái chiếc lược ngà.
- Ông Sáu mong ngày hoà bình về trao lại cho con cây lược.
- Phân tích trước lúc lâm chung ( ông Sáu bị thương trong một trận càn) , cái tình người cha không thể chết được, ông Sáu còn chút hơi tàn móc chiếc lược ngà trao cho người bạn gởi về con gái.
=> Chuyện "Chiếc lược ngà" không chỉ thể hiện tình cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu người. Và cũng từ đó nhắc khẽ mọi người phải sống cho xứng đáng với sự hi sinh của cha anh ngày trước.
c. Nghệ thuật kể chuyện
- xây dựng nội dung truyện kể cảm động với những yếu tố bất ngờ mà hợp lí.
- chọn lựa ngôi kể thích hợp : người kể bác Ba - bạn chiến đấu của ông Sáu, người đã chứng kiến toàn bộ cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu, với ngôi kể như vậy khiến câu chuyện kể thuyết phục và người kể chủ động điều khiển được nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình.
- miêu tả tâm lí trẻ thơ tinh tế sâu sắc.
- ngôn ngữ kể chuyện đậm chất nam bộ....
C.KẾT BÀI
"Chiến thắng lớn từ hi sinh to lớn,
Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường,
Người ra đi rồi không trở lại
Mẹ khóc mỗi hoàng hôn." ("Văn bia đền Bến Dược" - Viễn Phương)
Đất nước ta hôm nay đã có hoà bình, nhân dân ta có tự do. Để có cuộc sống tốt đẹp này, dân tộc ta đã phải đánh đổi bằng máu xương của hàng vạn đồng bào, chiến sĩ. Chiến tranh có thể tàn phá mọi thứ mà nó đi qua, nhưng tình cảm con người thì không bom đạn nào có thể huỷ diệt được. Tình cảm cha con ông Sáu - bé Thu trong truyện ngắc "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng mãi mãi là bài ca về tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh...
 
Y

yurihoa

Chiếc lược ngà
Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh.

Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ ấu(1985),…Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.
 
Y

yurihoa

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu.

Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào.Giá gì không có cái bi kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau,có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ!Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.”Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ…”,”Ông gò lưng khắc từng nét…”Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình yêu,nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có thể chiếc lược ấy chưa chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện,và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là “Chiếc lược ngà”!)

Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất,là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác,những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thác,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích,làm nhà nhà li tán,người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng,

“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại,thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng,phải là người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương,gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất,nha văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật,sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động,bất ngờ,hơn nữa lại có giọng văn dung di,cảm động!

Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu.
 
Top Bottom