[Văn9] Một số tài liệu ôn thi cần sửa

F

freakie_fuckie

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Tình hình là năm nay em phải thi 10 =.= gần hơn nữa là giữa tháng 10 này em phải thi HSG :| Mà cô em thì chỉ cho đề, thằng nào đăng ký thì thằng ý tự ôn nên em học cũng khá là vất vả *kể khổ* . Em đã thử làm một số đề (từ cơ bản đến hơi nâng cao*, đã hoàn thiện xong nhưng cần sửa chữa. Rất mong nhận đc một số nhận xét tâm huyết từ các bạn trong 4rum (đặc biệt là các mod văn ạ \m/) Em sẽ chăm chỉ post bài trong topic , một số phê bình hay nhận xét, sửa chữa giúp (hay đại loại thế ) mong các anh chị viết ngay dưới cho em %%- Em xin tks trước ạ :D

@ topic này em sửa văn nên mong các mem khác chỉ dừng lại ở việc "sửa chữa" hoặc ghi hoặc bổ sung bài , không có ý "sưu tầm tư liệu văn", thế nên đừng chú nào post bài làm "cá nhân" hay "sưu tầm" vào topic này, em thiếu ở đâu thì chỉ cần "bổ sung ý là được " cho em tiện theo dõi với tìm kiếm ;)
@ post trong box 9 nhưng một số bài đầu của em sẽ thuộc về lĩnh vực văn 8 . Mong mod ưu tiên em một chút (chỉ mất một vài cmt đầu thôi, đừng move đi đâu ạ )

Lưu ý chung : các mem góp ý tránh spam giúp tớ :| spam topic rất rối ạ


Một lần nữa cảm ơn các bạn @};-
 
F

freakie_fuckie

Bài 1 : Ông Đồ

Đề một : Phân tích khổ thơ cuối cùng trong thi phẩm Ông đồ (Vũ Đình Liên)
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?/​


Bài làm

Xuân về én liệng, khoảnh khắc giao mùa đầy sức sống và sinh sôi ấy đã được biết bao thi nhân vội vàng chớp lấy và thổi vào những hồn thơ. Người ta biết đến một cái xuân ngộ nghĩnh, tràn hồn Việt, lắng đọng bên trong "những chuỗi cười ngũ sắc" trong vần thơ Đoàn Văn Cừ , người ta yêu xuân vội vàng bừng nở "cả sự sống bắt đầu mơn mởn" trong thi vần của Xuân Diệu. Vũ Đình Liên cũng mang đến dòng chảy miền viên (?) muôn đời ấy một mùa xuân với phong vị mới , một mùa xuân không nghe thấy tiếng pháo, chẳng ngẫm thấy tiếng cười, xuân chỉ dìu dịu một chút buồn, một chút nuối tiếc thoảng qua, một mùa xuân không chỉ có những sinh sôi mà còn có cả những âm thầm tàn lụi - mùa xuân trong thi phẩm Ông đồ. Lòng thương người và tình hoài cổ đã thả dòng tràn trề trong từng vần thơ, và khổ thơ cuối, là một trong khổ thơ có lẽ để lại trong lòng độc giả nhiều rung động nhất.


Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?/​

Xuân sang đào lại nở, thời gian cứ nối tiếp đi những bước tuần hoàn. Song, xuân này so với những cái xuân xa xưa lắm, chỉ có " đào nở" chứ không phải là "hoa đào nở". Xuân mà chẳng có "hoa", âu cũng lấy làm lạ lùng lắm. Một nét hoa thiếu mất trong bức tranh họa tình đã mở ra khoảng trống cho niềm xót xa, thương cảm, thiếu vắng và buồn thương tràn về ngậm ngùi man mác. Cái thiếu vắng của nét vẽ ấy, phải chăng là một sự "sơ xuất hữu ỹ hữu tình" của thi nhân ? Nối tiếp cái khung cảnh mùa xuân dường như vẫn giống lắm những mùa xuân cũ là sự biễn mất, thay đổi đột ngột và lắm bất ngờ của chủ thể chữ tình :
Không thấy ông đồ xưa.
Nhân vật trữ tình ấym xuân kia là "ông đồ già", tết nay chợt trở thành "ông đồ xưa", "già" và "xưa" , đôi chữ ngỡ giống nhau mà cách nhau ngàn năm vạn tháng : già là khái niệm tuổi tác, xưa là khái niệm về thời gian, thời đại. Ông đồ già năm nao, đến mùa xuân nay sao lại "xưa", lại cũ kĩ, lại lắc lơ,ảo mờ đến thế ? Câu thơ vỏn vẹn năm chữ thôi mà hồn thơ giằng xé, khiến người đọc thấy hẫng hụt, nao nao. Đặt vào cả thi phẩm, đã có mùa xuân nào mà ông đồ vắng mặt ?Vậy mà đến tết nay, bóng hình ông đồ bất ngờ biến mất, không chỉ ông, mà ngay cả địa chỉ cỉa ông cũng chẳng thấy còn. Cảnh xưa vẫn vậy, thời gian vẫn trôi, hoa đào vẫn nở mà người đã ở nơi nao ? Và hoa đào nở.. Hoa đào nở vẫn đẹp lắm mà ngậm ngùi những đắng cay. Lòng nhân vật trữ tình, nói chính xác là lòng người , giờ đây không thể tìm thấy sự đồng điệu nào nơi thiên nhiên nữa. Những thứ sinh sôi ngẫu nhiên của thiên nhiên, vô tình trở thành những nhức nhối trong lòng người. Câu thơ giản dị, chậm rãi, khoan thai mà khắc khoải, ngậm ngùi của Vũ Đình Liên khiến người ta nghĩ nhiều về những vần thơ man mác buồn của Thôi Hiệu cổ:
"Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông"
Hoa đào, cái loài hoa đằm thắm, đẹp đẽ xiết bao, một lần nữa, lại bị thi nhân ép phải chứng kiến cảnh biệt ly, tàn lụi. Sự biến mất của ông đồ già giữa cảnh xuân sang đào nở, sao vô tình, sao mà nghệt ngã đáng thương? Và càng đau đớn hơn, kho bóng dáng ông đồ thân quen bên góc phố "xưa" đã nhập vào "những người muôn năm cũ" = những con người xa xưa, những "thiên hương" thuộc về quá khứ, không chút ràng buộc, liên quan gì đến hiện tại, dù là mong manh...Những vết tích cuối cùng mà con người "thiên cổ" ấy để lại, có lẽ chỉ còn mờ mờ in trong những dứt day của một miền thương nhớ, ông đồ, đến câu thơ này, chỏ còn là một "tàn tích" đáng thương ~ một tàn tích bằn bặt dẫu vết, đã cũ, đã muôn năm cũ mất rồi. Ông đồ ra đi, bức họa phẩm bằng thơ đã họa lại trọn vẹn đời của kẻ sinh bất phùng thời "niềm vui thì ít mà truân truyên (?) thì nhiều" : ngày sống thì ôm niềm xót xa mất tri âm tri kỷ, chịu cái cô đơn lạc lõng "qua đường không ai hay", đến ngày ra đi thì sự biến mất của ong cũng chỉ là một biến mất âm thầm lặng lẽ. Cái tôi của ông hoàn toàn mất hút, ông loãng tan trong cõi quá khứ mịt mùng, vô cái cõi vô danh, vô tung, vô tích của những "người muôn năm cũ".Câu thơ cuối ngân lên như một tiếng gọi hồn, một tiếng thở dài bâng khuâng man mác, gói trọn đủ những nức nở, xót xa trong lòng người
Hồn ở đâu bây giờ ?
Câu thơ như vùi nén, chôn chặt những tiếc nuối, đau đáu sầu thương, sầu thương cho cái nghịch cảnh quá đỗi bất công : cái ngày giao cắt giữa thời thế và thiên hương, giữa những giá trị truyền thống vào những điều mới mẻ, biết bao vẻ đẹp lưu giữ đã mất đi, đã bị thời gian xô ẩn. Dẫu biết rằng cái vòng tròn luẩn quẩn thịnh rồi suy, hoàng kim rồi tàn lụi nào có từ ai, song lòng người vẫn không kiềm đc niềm tiếc thương chua xót. Hồn là một cách gọi rất Việt Nam, nó gọi lên tất cả những gì qua đi nhưng còn mãi, văn hóa chỉ có thăng trầm chứ không có ngày tàn lụi, "câu thơ đã chạm vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên còn tha thiết mãi. Song,ta chớ nên hiểu rằng Vũ Đình Liên đang mơ cái ngày hồi sinh và cầu cái khoảnh khắc sống dậy của nền Nho học. Hơn ai hết, ông hiểu nền thơ văn Nho học xưa cần nhường chỗ cho những làn gió mới, sự tàn lụi của Nho Học là cần thiết. Điều ông thấy day dứt là " trong cái khoảnh khắc tan vỡ của nho Học, một số giá trị cổ truyền cần sống mãi với non sông đất nước đã vô tình bị mất đi. Lời thơ có sức gợi khơi mãnh liệt của thi phẩm đã để chúng ta, mooth thế hệ đã quá xa so với những xuân thắm sắc đào hoa vắng bóng người ấy càng thêm yêu quý, cảm thông với ông đồ ./


Em cứ thấy nó thiếu logic thế nào ấy ạ :|
Cảm ơn trước *lại cảm ơn*
Có [/U] một số ý tham khảo nguồn khác, mong không có cmt nào thắc mắc về nguồn của bài viết của tớ ở đây

 
Last edited by a moderator:
G

ga_cha_pon9x

Lòng thương người và tình hoài cổ đã thả dòng tràn trề trong từng vần thơ, và khổ thơ cuối, là một trong khổ thơ có lẽ để lại trong lòng độc giả nhiều rung động nhất.
Chú ý:Từ gạch chân;))
T thấy từ này dùng trong câu văn của m chưa phù hợp.Còn vì sao chưa phù hợp thì...khó gt lắm:((
 
Last edited by a moderator:
T

tunkute123

Đề một : Phân tích khổ thơ cuối cùng trong thi phẩm Ông đồ (Vũ Đình Liên)
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?/


Bài làm

Xuân về én liệng, khoảnh khắc giao mùa đầy sức sống và sinh sôi ấy đã được biết bao thi nhân vội vàng chớp lấy và thổi vào những hồn thơ. Người ta biết đến một cái xuân ngộ nghĩnh, tràn hồn Việt, lắng đọng bên trong "những chuỗi cười ngũ sắc" trong vần thơ Đoàn Văn Cừ , người ta yêu xuân vội vàng bừng nở "cả sự sống bắt đầu mơn mởn" trong thi vần của Xuân Diệu. Vũ Đình Liên cũng mang đến dòng chảy miền viên (?) muôn đời ấy một mùa xuân với phong vị mới , một mùa xuân không nghe thấy tiếng pháo, chẳng ngẫm thấy tiếng cười, xuân chỉ dìu dịu một chút buồn, một chút nuối tiếc thoảng qua, một mùa xuân không chỉ có những sinh sôi mà còn có cả những âm thầm tàn lụi - mùa xuân trong thi phẩm Ông đồ. Lòng thương người và tình hoài cổ đã thả dòng tràn trề trong từng vần thơ, và khổ thơ cuối, là một trong khổ thơ có lẽ để lại trong lòng độc giả nhiều rung động nhất.


Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?/

Xuân sang đào lại nở, thời gian cứ nối tiếp đi những bước tuần hoàn. Song, xuân này so với những cái xuân xa xưa lắm, chỉ có " đào nở" chứ không phải là "hoa đào nở". Xuân mà chẳng có "hoa", âu cũng lấy làm lạ lùng lắm. Một nét hoa thiếu mất trong bức tranh họa tình đã mở ra khoảng trống cho niềm xót xa, thương cảm, thiếu vắng và buồn thương tràn về ngậm ngùi man mác. Cái thiếu vắng của nét vẽ ấy, phải chăng là một sự "sơ xuất hữu ỹ hữu tình" của thi nhân ? Nối tiếp cái khung cảnh mùa xuân dường như vẫn giống lắm những mùa xuân cũ là sự biễn mất, thay đổi đột ngột và lắm bất ngờ của chủ thể chữ tình :
Không thấy ông đồ xưa.
Nhân vật trữ tình ấym xuân kia là "ông đồ già", tết nay chợt trở thành "ông đồ xưa", "già" và "xưa" , đôi chữ ngỡ giống nhau mà cách nhau ngàn năm vạn tháng : già là khái niệm tuổi tác, xưa là khái niệm về thời gian, thời đại. Ông đồ già năm nao, đến mùa xuân nay sao lại "xưa", lại cũ kĩ, lại lắc lơ,ảo mờ đến thế ? Câu thơ vỏn vẹn năm chữ thôi mà hồn thơ giằng xé, khiến người đọc thấy hẫng hụt, nao nao. Đặt vào cả thi phẩm, đã có mùa xuân nào mà ông đồ vắng mặt ?Vậy mà đến tết nay, bóng hình ông đồ bất ngờ biến mất, không chỉ ông, mà ngay cả địa chỉ cỉa ông cũng chẳng thấy còn. Cảnh xưa vẫn vậy, thời gian vẫn trôi, hoa đào vẫn nở mà người đã ở nơi nao ? Và hoa đào nở.. Hoa đào nở vẫn đẹp lắm mà ngậm ngùi những đắng cay. Lòng nhân vật trữ tình, nói chính xác là lòng người , giờ đây không thể tìm thấy sự đồng điệu nào nơi thiên nhiên nữa. Những thứ sinh sôi ngẫu nhiên của thiên nhiên, vô tình trở thành những nhức nhối trong lòng người. Câu thơ giản dị, chậm rãi, khoan thai mà khắc khoải, ngậm ngùi của Vũ Đình Liên khiến người ta nghĩ nhiều về những vần thơ man mác buồn của Thôi Hiệu cổ:
"Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông"
Hoa đào, cái loài hoa đằm thắm, đẹp đẽ xiết bao, một lần nữa, lại bị thi nhân em phải chứng kiến cảnh biệt ly, tàn lụi. Sự biến mất của ông đồ già giữa cảnh xuân sang đào nở, sao vô tình, sao mà nghệt ngã đáng thương? Và càng đau đớn hơn, kho bóng dáng ông đồ thân quen bên góc phố "xưa" đã nhập vào "những người muôn năm cũ" = những con người xa xưa, những "thiên hương" thuộc về quá khứ, không chút ràng buộc, liên quan gì đến hiện tại, dù là mong manh...Những vết tích cuối cùng mà con người "thiên cổ" ấy để lại, có lẽ chỉ còn mờ mờ in trong những dứt day của một miền thương nhớ, ông đồ, đến câu thơ này, chỏ còn là một "tàn tích" đáng thương ~ một tàn tích bằn bặt dẫu vết, đã cũ, đã muôn năm cũ mất rồi. Ông đồ ra đi, bức họa phẩm bằng thơ đã họa lại trọn vẹn đời của kẻ sinh bất phùng thời "niềm vui thì ít mà truân truyên (?) thì nhiều" : ngày sống thì ôm niềm xót xa mất tri âm tri kỷ, chịu cái cô đơn lạc lõng "qua đường không ai hay", đến ngày ra đi thì sự biến mất của ong cũng chỉ là một biến mất âm thầm lặng lẽ. Cái tôi của ông hoàn toàn mất hút, ông loãng tan trong cõi quá khứ mịt mùng, vô cái cõi vô danh, vô tung, vô tích của những "người muôn năm cũ".Câu thơ cuối ngân lên như một tiếng gọi hồn, một tiếng thở dài bâng khuâng man mác, gói trọn đủ những nức nở, xót xa trong lòng người
Hồn ở đâu bây giờ ?
Câu thơ như vùi nén, chôn chặt những tiếc nuối, đau đáu sầu thương, sầu thương cho cái nghịch cảnh quá đỗi bất công : cái ngày giao cắt giữa thời thế và thiên hương, giữa những giá trị truyền thống vào những điều mới mẻ, biết bao vẻ đẹp lưu giữ đã mất đi, đã bị thời gian xô ẩn. Dẫu biết rằng cái vòng tròn luẩn quẩn thịnh rồi suy, hoàng kim rồi tàn lụi nào có từ ai, song lòng người vẫn không kiềm đc niềm tiếc thương chua xót. Hồn là một cách gọi rất Việt Nam, nó gọi lên tất cả những gì qua đi nhưng còn mãi, văn hóa chỉ có thăng trầm chứ không có ngày tàn lụi, "câu thơ đã chạm vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên còn tha thiết mãi. Song,ta chớ nên hiểu rằng Vũ Đình Liên đang mơ cái ngày hồi sinh và cầu cái khoảnh khắc sống dậy của nền Nho học. Hơn ai hết, ông hiểu nền thơ văn Nho học xưa cần nhường chỗ cho những làn gió mới, sự tàn lụi của Nho Học là cần thiết. Điều ông thấy day dứt là " trong cái khoảnh khắc tan vỡ của nho Học, một số giá trị cổ truyền cần sống mãi với non sông đất nước đã vô tình bị mất đi. Lời thơ có sức gợi khơi mãnh liệt của thi phẩm đã để chúng ta, mooth thế hệ đã quá xa so với những xuân thắm sắc đào hoa vắng bóng người ấy càng thêm yêu quý, cảm thông với ông đồ ./


Em cứ thấy nó thiếu logic thế nào ấy ạ :|
Cảm ơn trước *lại cảm ơn*
Có [/U] một số ý tham khảo nguồn khác, mong không có cmt nào thắc mắc về nguồn của bài viết của tớ ở đây



Mạng bữa nay bị lang nên mai tớ sửa nhé mày. Tình hình thì có một số từ mày dùng không chuẩn nghĩa với hơi thô ( tràn trề phần mở bài). Nếu nó là một bài phân tích thì cũng sâu đó. Nhưng mày hơi nghiêng về cảm nhận. Tớ có cảm giác như vậy :D. Sau tớ edit lại những chỗ chưa hợp lí. Wait for me
 
G

ga_cha_pon9x

Vũ Đình Liên cũng mang đến dòng chảy miền viên (?)
Miền viên-?
Những thứ sinh sôi ngẫu nhiên của thiên nhiên, vô tình trở thành những nhức nhối trong lòng người.
Từ này dùng cũng chưa chuẩn:p
Hoa đào, cái loài hoa đằm thắm, đẹp đẽ xiết bao, một lần nữa, lại bị thi nhân em phải chứng kiến cảnh biệt ly, tàn lụi

Là sao đây,câu này m viết t chả hiểu gì8-},đầu và cuối chẳng liên quan gì cả.

Còn chung cả bài,m chưa làm đúng yêu cầu của đề,dường như m thiên về cảm nghĩ của bản thân hơn(đồng ý vs tun)
Thế thôi>''<
 
F

freakie_fuckie

Miền viên-?

Từ này dùng cũng chưa chuẩn:p
[/U][/B]
Là sao đây,câu này m viết t chả hiểu gì8-},đầu và cuối chẳng liên quan gì cả.

Còn chung cả bài,m chưa làm đúng yêu cầu của đề,dường như m thiên về cảm nghĩ của bản thân hơn(đồng ý vs tun)
Thế thôi>''<



Gà : sr em =)) Ép mày ạ :"> tớ gõ nhầm :"> Là ép đây

Ý ta là : hoa đào lại lần nữa bị thi nhân ép phải chứng kiến cảnh biệt ly tàn lụi :">

Ợ, tks các mày
Thế phân tích thì phải viết làm sao :eek:
Cho tớ mấy cái ý :"> tớ sửa lại
Tks nhoé :*

còn cái từ miền viên : đầy , nhiều :">
Tớ đặt dấu hỏi sau chỗ ý vì tớ chịu cách viết từ này :| nhớ nó là miền viên hay triền viên gì đấy 8-} Thằng nào nhớ đc từ ấy thì bảo tớ tớ sửa

@ll tks lắm lắm :-*
 
A

annhinhanh_1997



Gà : sr em =)) Ép mày ạ :"> tớ gõ nhầm :"> Là ép đây

Ý ta là : hoa đào lại lần nữa bị thi nhân ép phải chứng kiến cảnh biệt ly tàn lụi :">

Ợ, tks các mày
Thế phân tích thì phải viết làm sao :eek:
Cho tớ mấy cái ý :"> tớ sửa lại
Tks nhoé :*

còn cái từ miền viên : đầy , nhiều :">
Tớ đặt dấu hỏi sau chỗ ý vì tớ chịu cách viết từ này :| nhớ nó là miền viên hay triền viên gì đấy 8-} Thằng nào nhớ đc từ ấy thì bảo tớ tớ sửa

@ll tks lắm lắm :-*

Hình như là triền miên đó mày ạ. Tớ nhớ sơ sơ là vậy. Còn hoa đào bị ép, thế là sao? :-?

Tớ nghĩ không nên dùng tờ ép ở đây. Theo tớ nghĩ đó chỉ là vô tình thôi mà. Có ai muốn sự tàn lụi của nền Nho học ngàn năm ấy đâu.

Hoa đào vô tình một lần nữa lại phải chứng kiến cảnh biệt li tàn lụi dưới ngòi bút thi nhân

Còm men tớ phát nhé :D
 
M

meoconnhinhanh97

tớ thấy bài này làm tốt nhưng hơi lan man
chưa đánh vào trọng tâm của đề nứa
theo cậu thì bài thơ này có mang phong cách cổ truyền của phong trào lạng mạn k?
tớ nghĩ nên bỏ thêm mấy thứ''quy luật'' của thơ lạng mạn vào=P~
vd như là
càng sống dưới thực tại,nỗi đau đời càng trào dâng,trở về với qk huy hoàng(cái nì nói 1 tí đoạn đầu).con người trí thức đó vẫn luôn nặng lòng yêu cuộc sống,yêu từng nét bản sắc văn hoá,vẫn tôn xinh từng nét chữ của cha ông.nhưng càng tiếc nhớ,càng nặng lòng thì càng rơi vào ngõ hẽm bế tắc ở hiện tại.tạo hoá vân diễn ra,nhưng hình bóng ông đồ dường như đã mất hút trong màn mưa bụi xa xa.những giọt lệ nhuốm thực cảnh đã hoà lẫn cùng nỗi đau ấm nóng nỗi sầu thương nhớ về 1 lớp ng tô thêm vẻ đẹp cho dân tộc.==>cái này sẽ góp phần làm nổi bật khổ thơ cuối hơnO:)
nhưng tớ nghĩ 4 câu cuối cũng thể hiện 1 nét tiêu cực của thơ mới;;0
thơ mới mang mối thù k đội trười chung vs thực tại nên luôn tìm đường thóat li trôi về quá khứ nhưng càng đi càng lạc lối,càng nhìn thấy nỗi cô đơn vắng lạnh của chính cái tôi thực tại.và chính cái sự thoát li''k căn cứ ''đó đã khiến cho các nhà văn lạng mạn đánh giá thực tại theo hướng thẫm mĩ mang đậm cái tôi.có nghĩa là họ chỉ chấp nhận những mặt phù hợp ''vs họ'' trong cuộc sống,trong lí tưởng thẩm mĩ chủ quan,và họ quay ngoắt phủ nhận làm ngơ những thứ họ k cho là đẹp;;)
@@lung tung thôi#-o
 
T

tunkute123

tớ thấy bài này làm tốt nhưng hơi lan man
chưa đánh vào trọng tâm của đề nứa
theo cậu thì bài thơ này có mang phong cách cổ truyền của phong trào lạng mạn k?
tớ nghĩ nên bỏ thêm mấy thứ''quy luật'' của thơ lạng mạn vào=P~---> Đặc điểm nổi bật
vd như là
càng sống dưới thực tại,nỗi đau đời càng trào dâng,trở về với qk huy hoàng(cái nì nói 1 tí đoạn đầu).con người trí thức đó vẫn luôn nặng lòng yêu cuộc sống,yêu từng nét bản sắc văn hoá,vẫn tôn xinh từng nét chữ của cha ông.nhưng càng tiếc nhớ,càng nặng lòng thì càng rơi vào ngõ hẽm bế tắc ở hiện tại.tạo hoá vân diễn ra,nhưng hình bóng ông đồ dường như đã mất hút trong màn mưa bụi xa xa.những giọt lệ nhuốm thực cảnh đã hoà lẫn cùng nỗi đau ấm nóng nỗi sầu thương nhớ về 1 lớp ng tô thêm vẻ đẹp cho dân tộc.==>cái này sẽ góp phần làm nổi bật khổ thơ cuối hơnO:)
nhưng tớ nghĩ 4 câu cuối cũng thể hiện 1 nét tiêu cực của thơ mới;;0
thơ mới mang mối thù k đội trười chung vs thực tại nên luôn tìm đường thóat li trôi về quá khứ nhưng càng đi càng lạc lối,càng nhìn thấy nỗi cô đơn vắng lạnh của chính cái tôi thực tại.và chính cái sự thoát li''k căn cứ ''đó đã khiến cho các nhà văn lạng mạn đánh giá thực tại theo hướng thẫm mĩ mang đậm cái tôi.có nghĩa là họ chỉ chấp nhận những mặt phù hợp ''vs họ'' trong cuộc sống,trong lí tưởng thẩm mĩ chủ quan,và họ quay ngoắt phủ nhận làm ngơ những thứ họ k cho là đẹp;;)
@@lung tung thôi#-o

Chỗ đỏ là những thứ tớ cần phải chỉnh sửa về cách dùng từ cho mày 8-} Quá tùy tiện và dùng theo nghĩa đặc biệt không nên dùng. Vì nó không chuẩn. Thân
 
F

freakie_fuckie

Theo tớ thì có lẽ không nên viết đoạn này vào, vì thực chất, sự suy tàn của Nho học không phải là lỗi của những nhà thơ mới
Sự suy vi của nền khổng học nhen nhóm khoảng từ những năm 1930 (lúc này ông Phan Khôi, người tiên phong cho cách mạng thơ sau này, đã viết một thôi khoảng 21 bài viết để chỉ trích nền Khổng học), và chế độ khoa cử bị bãi bỏ muộn nhất ở Trung Kỳ năm 1918, kèm theo đó là sự thất thế của thể thất ngôn luật ~> đây có lẽ mới là hoàn cảnh tác giả muốn nói đến
Tớ không nghĩ rằng tác giả muốn nói đến mặt tiêu cực của thơ mới, bởi , vào 10/3/1932 cuộc cách mệnh thi ca mới nhóm dậy và sang năm 1936 , sự toàn thắng của thơ mới mới "rõ rệt", tức là, thời tàn lụi của Nho học xảy ra trước và khá xa so với sự xuất hiện của các nhà thơ mới
Vậy sao lại nói sự tàn lụi của Nho học thể hiện mặt tiêu cực của Thơ mới ? Như vậy e không chính xác.
Btw, tks all
 
T

tunkute123

Theo tớ thì có lẽ không nên viết đoạn này vào, vì thực chất, sự suy tàn của Nho học không phải là lỗi của những nhà thơ mới
Sự suy vi của nền khổng học nhen nhóm khoảng từ những năm 1930 (lúc này ông Phan Khôi, người tiên phong cho cách mạng thơ sau này, đã viết một thôi khoảng 21 bài viết để chỉ trích nền Khổng học), và chế độ khoa cử bị bãi bỏ muộn nhất ở Trung Kỳ năm 1918, kèm theo đó là sự thất thế của thể thất ngôn luật ~> đây có lẽ mới là hoàn cảnh tác giả muốn nói đến
Tớ không nghĩ rằng tác giả muốn nói đến mặt tiêu cực của thơ mới, bởi , vào 10/3/1932 cuộc cách mệnh thi ca mới nhóm dậy và sang năm 1936 , sự toàn thắng của thơ mới mới "rõ rệt", tức là, thời tàn lụi của Nho học xảy ra trước và khá xa so với sự xuất hiện của các nhà thơ mới
Vậy sao lại nói sự tàn lụi của Nho học thể hiện mặt tiêu cực của Thơ mới ? Như vậy e không chính xác.
Btw, tks all


Nếu là khổ thơ cuối thì nên nói. Vì không phải bài thơ nào cũng hoàn hảo. Nếu ta cố mà tìm thì cũng phát hiện ra những vết sạn ( bới lông tìm vết ấy). Cũng như pt Thơ mới vậy. Tuy có phát triển so với thơ Trung đại về nhiều khía cạnh, song nó vẫn chưa đi thực sự đúng hướng... Nên nói để thấy được bề sâu của vấn đề................
Thân
 
F

freakie_fuckie

Bạn mình thân mến

@ topic này em sửa văn nên mong các mem khác chỉ dừng lại ở việc "sửa chữa" hoặc ghi hoặc bổ sung bài , không có ý "sưu tầm tư liệu văn", thế nên đừng chú nào post bài làm "cá nhân" hay "sưu tầm" vào topic này, em thiếu ở đâu thì chỉ cần "bổ sung ý là được " cho em tiện theo dõi với tìm kiếm

Topic này tớ tự tay lập, mong mọi người tôn trọng mục đích chính của topic tớ đã lập ra
Thân thiết,


@ Tun ạ : move cái kia sang topic khác đê :| À mà move đi đâu đới thì nhớ chỉnh lại cái size nhá @@ loạn mắt, nhìn đau đầu lắm
 
F

freakie_fuckie

Cánh buồm trắng trong hồn thơ Tế Hanh .


Bài làm.
Quê hương, đôi tiếng gọi thân thương quá đỗi, cứ mỗi lúc ngân lên lại làm náo nức cõi lòng. Gắn bó với thuở ấu thơ, nuôi dưỡng bao kỷ niệm, tưởng chẳng còn gì thân thuộc với ta hơn mảnh đất nơi ta chôn rau cắt rốn-dòng chảy quê hương đã là nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thế hệ thi nhân. Quê Hương của Quỳnh Dao là Huế mộng mơ với “một hàng tôn nữ cười trong nón”, của Nam Trân là âm vị thân thương của“êm êm dòng nước Hương Giang ..”, của Quách Tấn là Đà Lạt đêm sương nơi có “non sao bờ suối ngọc”…Thơ viết về quê hương rất nhiều, song, mỗi quê hương lại mang một vẻ, bởi, mỗi “quê hương” lại được phác lại bằng một lăng kính riêng, một góc nhìn riêng. Mà bấy nhiêu góc nhìn là bấy nhiêu tâm hồn thi sĩ, vậy mới thấy mạnh mẽ thay sức quyến rũ của quê hương với các thi nhân. Tế Hanh, một nhà thơ có danh trong làng thơ mới, cũng đã dành không ít tứ thi để viết về quê hương – thơ người viết không cầu kỳ, trau chuốt, người kể về cảnh vật quê hương, về những chốn xa xưa nơi người từng gắn bó, từng ý thơ như rung cùng với nhịp đập con tim, thoáng một “hồn say dịu dịu, mộng êm êm”. Nói về những thi phẩm gắn với quê hương của Tế Hanh thì không thể không kể đến tác phẩm “Quê hương”. “Quê hương” viết về mảnh đất chài Trà Bồng ven biển nơi đã gắn bó với thi nhân cả thời thơ ấu. “Cánh buồm vôi, con thuyền gỗ qua lời thơ Tế Hanh, đã rẽ sóng, đã đi sâu vào những ngõ ngách rung cảm sâu sa trong lòng người đọc.
Mỗi câu thơ trong Quê Hương đều thấp thoáng hình ảnh một con thuyền…Và nếu có coi “Quê hương” như một bức họa phẩm, thì “con thuyền” chính là một trong những nét nhấn chính – nó hiện ra với đủ các dáng dấp trong rất nhiều khung cảnh. Khung cảnh đầu mở ra, ấy là một sớm mai “trời trong, gió nhẹ”, ánh mặt trời phơn phớt xuất hiện phía cuối biển dịu dàng tô “hồng” cả bình minh, dân chài lưới bắt đầu một ngày ra khơi đánh cá. Con thuyền như nổi bật giữa khung cảnh ấy – theo gót dân chài- nó hăng hái ra khơi :
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang……
Đọc đến đây, chợt thấy phảng phất trong tim bóng hình của con thuyền khác trong tứ thơ Huy Cận..
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng..
( Tràng giang)
Con thuyền chở lòng thi nhân âu chẳng khác gì “củi một cành khô”, bơ vơ, lạc loài, vô định giữa cái mênh mông sóng nước. Con thuyền trong tâm khảm Tế Hanh, nó mang những khác biệt hoàn toàn : Trước biển khơi bao la hùng vĩ, con thuyền và những người dân chài như nhập vào làm một – người và vật, họ đã gộp chung hồn như một cá thể đông nhất – bóng dáng con thuyền dường như là nó nhưng không còn là chính nó – nó chở trong mình cái hồn của những người ra khơi. “Hăng như con tuấn mã”,con thuyền gỗ rẽ sóng chạy băng băng, nó “vượt trường giang” , hướng về phía trước. Một loạt các động từ mạnh “phăng”, “vượt” cùng tính từ “mạnh mẽ”, tất cả đã dựng lên một con thuyền làng chài đầy hăng hái – trong trời thi văn, hiếm khi ta đọc những câu thơ có hồn hơn thế. Lạ thay, đôi năm sau, khi Huy Cận viết “Đoàn thuyền đánh cá”, ta, dường như thấy sợi dây vô hình khéo gắn kết hai hồn thơ :
Con thuyền chạy đua cùng mặt trời
( Huy Cận)
Dẫu vậy, dù ở Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận hay Quê Hương của Tế Hanh, ta đều thấy sáng ngời hình ảnh một con thuyền mang dáng dấp tâm hồn của một con người – nó hăng say, nó yêu biển cả và hăng hái lao động.
Cánh buồn giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Con thuyền, dưới ngòi bút của thi nhân, đươc linh điệu hóa thành hình tượng vô cùng kỳ vĩ, hùng tráng. Hoài Thanh đã từng ca ngợi rằng Tế Hanh đã “ghi được đôi nét rất tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương”, nhà thơ đã gọi ra những thứ “không hình không sắc” như “mảnh hồn làng” trên cánh buồm giương, người đã khéo léo hình hài hóa những thứ trừu tượng mà ta chưa từng nhìn thấy. Ta ngỡ ngàng lắng nghe sợi dây khăng khít giữa làng chài và con thuyền gỗ : trọn niềm mong nhớ, hi vọng mà quê hương muốn gửi đã được “trao” tay cánh buồm trắng – người dân chài ra khơi, họ mang theo cả quê nhà. Con thuyền được thổi gió, giương buồm trắng – vậy mà trong tiếng lòng thi nhân, con thuyền “rướn thân trắng” để “thâu góp gió, từ bị động mà thành chủ động, con thuyền mang hồn dân chài, những con người luôn làm chủ trước thiên nhiên, những con người sức dài vai rộng ôm cả biển cả, cả phong ba vào lòng. Phác nét con thuyền, Tế Hanh như đang cất lên lời ngợi ca của những người dân ven biển. Cánh buồm là “mảnh hồn làng”, con thuyền là biểu tượng của làng quê, của người dân vùng biển.
Những ngày ra khơi vừa hết, lời thơ biến hóa, gợi ra cả cái cảnh “ồn ào bến đỗ” tấp nập, vui tươi. Bến nhỏ phác ra với đủ thứ hình ảnh rất đẹp , rất ngộ nghĩnh và rất đa hình đa sắc : đây là cảnh “dân làng tấp nập”, đây là sắc trắng bạc của “cá đầy ghe”, đây là màu rám nắng của người dân làng – giữa bức họa đầy màu sắc đó, còn thuyền, không những mờ nhạt, mà còn thêm nổi bật biết bao :
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ..
Ngày ra khơi hết, con thuyền trở niềm vui về bến đỗ, nó mệt mỏi nằm dài bên bến đỗ, để nghe “chất muối thấm dần” Nhà thơ đã khéo lấy cái động để cực tả cái tĩnh : con thuyền “im” để rạo rực “nghe” chất muối mặn mòi đang thấm dần bên trong. Con thuyền sao tinh tế như hồn thi sĩ , phải chăng chính hơi muối mặn mòi nơi quê hương đã thổi cho nó một sức sống mặn mà.
Kết thúc thơ, một lần nữa, con thuyền lại xuất hiện – nó như một điểm nhấn rất sâu trong miền hoài niệm
[..]Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi…
Cảnh trong tâm mà hiện ra thực hơn cả thực, chiếc buồm vôi, sóng đôi với màu nước xanh, thân cá bạc, đã trở thành dấu “tiêu” để người con xa quê nhớ về nơi đất mẹ. Con thuyền ấy trở cả cái hồn quê, nó gắn với ấu thơ, với tình quê hương đến nỗi :
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá..
Câu thơ nhịp nhẹ nhàng, ngân nga, dập dờn như con sóng, nghẹn ngào như gió khơi, nhẹ đưa người ta vào kỷ niệm mơn man vùng đất mẹ, tạo nên những dư vị tha thiết, ngân nga.
Tế Hanh, xuất hiện trong phong trào thơ mới, người đầy tình yêu, người hoài quá khứ, người trân trọng thực tại – người không chìm đắm trong những niềm bức bách thời gian, người hòa hồn cùng quê hương, người thả trái tim theo cánh buồm vôi nơi sông nước../
 
F

freakie_fuckie

Cô văn của con nhé ~ con nộp bài Kiều (comment dưới)

Đề bài : Bút pháp miêu tả thiên nhiên trong truyện Kiều

Ý chính ~
“Sự phán đoán cái đẹp đã không phân minh, trông cái đẹp đã không biết được đẹp vì cái gì, thời đứng trước cảnh thiên nhiên làm sao phân tích cho được vẻ đẹp của tạo vật? Đã không phân tích được những vẻ đẹp, thời tình cảm dù có cũng hồ đồ, như thế văn miêu tả, tất cũng mập mờ không đúng được”. Thơ văn miêu tả, đặc biệt là thơ văn miêu tả thiên nhiên, thực chất là những bức họa phẩm kỳ công được tạo nên từ ngòi bút, hay nói khác đi, người làm văn “dùng chữ” mà họa lên cảnh vật. Mà đã là “họa trong thơ” thì trước nhất, khung cảnh được thi nhân phác ra phải khiến kẻ đọc hình dung được mà “sinh cảm sinh tình”. Nói đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thi văn, ta không thể không nói đến Nguyễn Du – bút pháp “họa cảnh trung thi” của ông được thể hiện rõ nét nhất trong tuyệt tác gồm hơn 3000 câu thơ – Truyện Kiều.
Đọc truyện Kiều, ta chớ nên coi thiên nhiên chỉ là bức phông nền phụ họa cho nhân vật – xuyên suốt hơn ba ngàn câu thơ trong Truyện Kiều, câu thơ nào cũng phảng phất bóng thiên nhiên – thiên nhiên ấy thực sự đã trở thành một trong những nhân vật chính không thể thiếu, nó hiện diện nhưng lặng lẽ, âm thầm, kín đáo – thiên nhiên yêu con người trong thơ, nó là người bạn sẻ chia, thấu hiểu nỗi lòng người.

-Cảnh sắc trong truyện Kiều luôn biến hóa khôn lường và hiện ra dưới đủ hình hài, màu sắc, nét vẽ thì nét nào cũng gọn gàng, ít nét, chứa chan tình – vậy mà đọc ta tưởng như cả một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ huy hoàng đang dựng ngay trước mắt – Nguyễn Du quả là một nhà danh họa đại tài. Cảnh vui buồn, xuân-hạ, ngày-đêm, gặp gỡ hay chia ly, trong con mắt thi nhân đều rất đỗi nên thơ :
Thoáng bóng xuân sang, ngắm trời đầy én liệng, người phóng bút, họa lên bức họa rất thần :
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa../
Hai câu thơ cùng nằm trên mặt bằng cảm nghĩ, nếu cặp câu “cỏ non…” là cái nhìn không gian, thì cặp thơ trước đó ( “Ngày xuân..”) là góc nhìn thời gian. Ta không nên hiểu “ngày xuân con én đưa thoi” là khung cảnh én liệng như thoi đưa trên bầu trời trong sáng. Với người con gái ngày đầu được dự tiết thanh minh, ngày xuân sao trôi nhanh như cánh én: mới dạo đầu xuân qua, tính ra đến hôm nay đã “ngoài sáu mươi”, nắng đẹp mùa xuân đã tỏa hết hai phần, lòng rạo lên một niềm nuối tiếc.Thời gian – khái niệm trừu tượng đã được thi nhân khéo léo “hình tượng hóa”. Câu thơ không quá gấp gáp, vội vàng, vậy mà ta vẫn cảm nhận được cái trôi chảy vùn vụt không ngừng của thời gian. Cái sốt ruột của tuổi trẻ, của thi nhân là một cái “sốt ruột thời đại”, chẳng vậy mà trăm năm sau, đọc “Vội vàng” của Xuân Diệu, ta cũng tìm được những vần thơ tương tự:
Tôi không đợi nắng hạ mới hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già…
Vần thơ tuy khác nhau, nhưng quả là có sự trùng hợp bất ngờ giữa lòng của hai con người, hai thời đại.
Bút phác nét, cả cánh cửa mùa xuân mở ra với bao nhiêu tầng bậc, sắc màu tương phản mà hài hòa, nét vẽ sắc nét nhưng cung đầy lung linh, ảo mộng – những câu thơ tả cảnh ấy xứng đáng được ngợi ca như bức họa văn chương “vô tiền khoáng hậu”. Mỗi câu thơ đều mang cái hơi thở ấm nồng, trong lành, thanh khiết của mùa xuân – cỏ non tiếp nối trời xanh, nổi bật lên là “điểm” của đôi vài bông lê trắng – tất cả như cùng phụ họa cho nhau mà cùng nổi bật, lời thơ êm ái nhẹ nhàng, như chở cả khí xuân đang vương vất trong hơi cỏ, trong hương lê bay lên cao mãi – sự thay đổi trật tự câu chữ thông thường từ “trắng điểm” thành “điểm trắng” đã thổi vào cái thần cho bức họa phẩm, mở ra thế giới đẹp đẽ, lung linh, hồn người như lâng lâng say trên dập dờn những hoa và sóng cỏ - trong không gian tinh khôi, ta thấy lấp lánh nụ cười phong nhụy của mùa xuân ~ đó quả là một trong những mùa xuân đẹp nhất trong lịch sử văn học Việt.
Tả mùa hạ, thi nhân tả ba lần những không lần nào giống lần nào cả:
Lần lần ngày gió đêm trăng
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua

Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông

Mải vui rượu sớm trà trưa,
Đào đà phai thắm, sen đà nảy xanh..
Hạ cụ tả không kỹ bằng sắc xuân trên kia, bởi, những câu trên cốt kể chứ không thiên về tả. Dẫu vậy, qua vài nét phác với hình ảnh đào biếc phai, lá xanh chồi ( thưa hồng rậm lục), với “tiếng quyên”, với “lửa lựu lập lòe” hay “sen đà nảy xanh”, ta cũng thấy rõ mồn một cái bóng hè sang. Cũng như vậy, mùa thu cụ chỉ chấm phá vài nét thôi mà ta ngỡ như cả trời thu như hiện ra trước mắt:
Nửa năm hơi tiếng vừa quen, sân ngô cành bích đã chen lá vàng
Hình ảnh lá ngô đồng thu sang trong thơ văn tưởng đã nhàm, đã cũ, vậy mà bằng bút pháp của thi nhân, nó hiện ra, đầy mới mẻ và đẹp đẽ biết bao, hay :
''Vi lô san sát hơi may
một trời thu để riêng ai một mình''
'' Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng Phong thu đã nhuốm màu quan san''.
Như lúc thi nhân tả đông, từng ý thơ như nhuốm cái lành lạnh của ngày giá, vương vương cái ảm đạm của những ngày buồn :
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

-Cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều luôn nhuốm nặng nỗi niềm con người, đọc thơ mà cảnh như tan ra, tất cả những gì đọng lại trong lòng ta là lòng người được đặt trong một không gian hoàn toàn đồng điệu. Nguyễn Du không ép thiên nhiên phải hiểu nỗi lòng người như thi sĩ cổ, thi nhân tự nhiên cho cảnh tìm đến người, và người bước “lần” đến cảnh. Cảnh – người, đó là cả hai đối tượng mà thi nhân hướng tới – họ như người bạn tri kỷ tri âm, cùng vui cùng buồn, họ tìm đến nhau để tạo nên sự hòa hợp hai chiều tuyệt vời – trong cảnh có người – trong lòng người lại nhuốm màu cảnh vật. Sự kết hợp giữa tâm thức và thứ vô tri đã thổi vào cảnh vật một sức sống mãnh liệt, để cảnh vật mang những xúc cảm riêng tư ~ người và cảnh , hai là một, mà một tựa như hai, Nguyễn Du đã có câu tuyên ngôn về sự giao hòa hiếm có ấy
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Dẫn chứng :
Ví như khi Kiều trở về nhà sau tiết thanh minh
Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Câu thơ không chỉ họa ra rõ cái buổi chiều xuân, đồng điền tĩnh mịch, cảnh vật thanh thanh, mà nó còn gợi ra những tâm tình của khách du xuân trở về.
8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Tám ý thơ không đơn thuần tả cảnh, cảnh mở ra là để dẫn dắt người đọc đến một thế giới nội tâm lung linh xúc cảm : Mọi nét bút của thi nhân đều bắt đầu bằng hai chữ “buồn trông”, cái “buồn” vời vợi của người con gái xa nhà ấy đã trở thành điệp khúc chủ đạo, thành mạch nguồn xuyên suốt tám câu thơ. Bức tranh “nửa tình nửa cảnh” thiên biến nhiều nét vẽ, mỗi nét một sắc, mỗi nét một hình, song nét nào cũng bâng khuâng tâm trạng :
Cánh buồm chiều thấp thoáng trôi trong một bể khói sương: mở khoảng lặng cho nỗi nhớ nhà, nhớ song thân ùa về, thẳm thẳm nỗi niềm lẻ loi, đơn độc.
Sắc hoa trôi man mác giữa ngọn nước mới sa : nỗi lo số phận chìm nổi lênh đênh, còn đâu nữa những ngày “trướng rủ màn che” êm ấm.
Nội cỏ rầu rầu : nỗi buồn bàng bạc vỡ òa ra cả không gian
Dội lên một tiếng sóng gầm kinh hãi : điềm báo những giông tố sắp nổi cuốn lấy cuộc đời nàng.
~> Tiếng sóng gầm như nốt nhấn dự dội, kinh hoàng, khép lại bản ca bi kịch ở lầu Ngưng Bích
Hay:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tớ liễu bóng chiều thiết tha
Âu ta ngỡ như cảnh vật là người bạn tâm tình luôn am hiểu lòng nhân vật.
- Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du đầy màu sắc
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Hay :
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Hoặc :
Long lanh đáy nước in trời, thành xây khói biếc non phơi bóng vàng..
Nguyễn Du rất chú trọng sắc màu trong khi tả cảnh sắc, dầu vậy, màu sắc của thi nhân thường nhuốm buồn.

-Thơ văn tả thiên nhiên, người dùng nhiều điển tích , điển cố, và hơn cả là từ ngữ dân gian – tính dân tộc đã trở thành nét đặc sắc tiêu biểu :
Có câu “cỏ áy” gì gì đấy, >”< Ai còn nhớ câu ấy, xin bổ sung giúp tớ
Hoặc các điển tích thường gặp : sân Lai, gốc Tử,vv..

Kết :
“ Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta. Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời , mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều).”


 
Last edited by a moderator:
T

tunkute123

Đề bài : Bút pháp miêu tả thiên nhiên trong truyện Kiều

Ý chính ~
“Sự phán đoán cái đẹp đã không phân minh, trông cái đẹp đã không biết được đẹp vì cái gì, thời đứng trước cảnh thiên nhiên làm sao phân tích cho được vẻ đẹp của tạo vật? Đã không phân tích được những vẻ đẹp, thời tình cảm dù có cũng hồ đồ, như thế văn miêu tả, tất cũng mập mờ không đúng được”. Thơ văn miêu tả, đặc biệt là thơ văn miêu tả thiên nhiên, thực chất là những bức họa phẩm kỳ công được tạo nên từ ngòi bút, hay nói khác đi, người làm văn “dùng chữ” mà họa lên cảnh vật. Mà đã là “họa trong thơ” thì trước nhất, khung cảnh được thi nhân phác ra phải khiến kẻ đọc hình dung được mà “sinh cảm sinh tình”. Nói đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thi văn, ta không thể không nói đến Nguyễn Du bút pháp “họa cảnh trung thi” của ông được thể hiện rõ nét nhất trong tuyệt tác gồm hơn 3000 câu thơ – Truyện Kiều.
Đọc truyện Kiều, ta chớ nên coi thiên nhiên chỉ là bức phông nền phụ họa cho nhân vật – xuyên suốt hơn ba ngàn câu thơ trong Truyện Kiều, câu thơ nào cũng phảng phất bóng thiên nhiên – thiên nhiên ấy thực sự đã trở thành một trong những nhân vật chính không thể thiếu, nó hiện diện nhưng lặng lẽ, âm thầm, kín đáo – thiên nhiên yêu con người trong thơ, nó là người bạn sẻ chia, thấu hiểu nỗi lòng người.

-Cảnh sắc trong truyện Kiều luôn biến hóa khôn lường và hiện ra dưới đủ hình hài, màu sắc, nét vẽ thì nét nào cũng gọn gàng, ít nét, chứa chan tình – vậy mà đọc ta tưởng như cả một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ huy hoàng đang dựng ngay trước mắt – Nguyễn Du quả là một nhà danh họa đại tài. Cảnh vui buồn, xuân-hạ, ngày-đêm, gặp gỡ hay chia ly, trong con mắt thi nhân đều rất đỗi nên thơ :
Thoáng bóng xuân sang, ngắm trời đầy én liệng, người phóng bút, họa lên bức họa rất thần :
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa../
Hai câu thơ cùng nằm trên mặt bằng cảm nghĩ, nếu cặp câu “cỏ non…” là cái nhìn không gian, thì cặp thơ trước đó ( “Ngày xuân..”) là góc nhìn thời gian. Ta không nên hiểu “ngày xuân con én đưa thoi” là khung cảnh én liệng như thoi đưa trên bầu trời trong sáng. Với người con gái ngày đầu được dự tiết thanh minh, ngày xuân sao trôi nhanh như cánh én: mới dạo đầu xuân qua, tính ra đến hôm nay đã “ngoài sáu mươi”, nắng đẹp mùa xuân đã tỏa hết hai phần, lòng rạo lên một niềm nuối tiếc.Thời gian – khái niệm trừu tượng đã được thi nhân khéo léo “hình tượng hóa”. Câu thơ không quá gấp gáp, vội vàng, vậy mà ta vẫn cảm nhận được cái trôi chảy vùn vụt không ngừng của thời gian. Cái sốt ruột của tuổi trẻ, của thi nhân là một cái “sốt ruột thời đại”, chẳng vậy mà trăm năm sau, đọc “Vội vàng” của Xuân Diệu, ta cũng tìm được những vần thơ tương tự:
Tôi không đợi nắng hạ mới hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già…
Vần thơ tuy khác nhau, nhưng quả là có sự trùng hợp bất ngờ giữa lòng của hai con người, hai thời đại.
Bút phác nét, cả cánh cửa mùa xuân mở ra với bao nhiêu tầng bậc, sắc màu tương phản mà hài hòa, nét vẽ sắc nét nhưng cung đầy lung linh, ảo mộng – những câu thơ tả cảnh ấy xứng đáng được ngợi ca như bức họa văn chương “vô tiền khoáng hậu”. Mỗi câu thơ đều mang cái hơi thở ấm nồng, trong lành, thanh khiết của mùa xuân – cỏ non tiếp nối trời xanh, nổi bật lên là “điểm” của đôi vài bông lê trắng – tất cả như cùng phụ họa cho nhau mà cùng nổi bật, lời thơ êm ái nhẹ nhàng, như chở cả khí xuân đang vương vất trong hơi cỏ, trong hương lê bay lên cao mãi – sự thay đổi trật tự câu chữ thông thường từ “trắng điểm” thành “điểm trắng” đã thổi vào cái thần cho bức họa phẩm, mở ra thế giới đẹp đẽ, lung linh, hồn người như lâng lâng say trên dập dờn những hoa và sóng cỏ - trong không gian tinh khôi, ta thấy lấp lánh nụ cười phong nhụy của mùa xuân ~ đó quả là một trong những mùa xuân đẹp nhất trong lịch sử văn học Việt.
Tả mùa hạ, thi nhân tả ba lần những không lần nào giống lần nào cả:
Lần lần ngày gió đêm trăng
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua

Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông

Mải vui rượu sớm trà trưa,
Đào đà phai thắm, sen đà nảy xanh..
Hạ cụ tả không kỹ bằng sắc xuân trên kia, bởi, những câu trên cốt kể chứ không thiên về tả. Dẫu vậy, qua vài nét phác với hình ảnh đào biếc phai, lá xanh chồi ( thưa hồng rậm lục), với “tiếng quyên”, với “lửa lựu lập lòe” hay “sen đà nảy xanh”, ta cũng thấy rõ mồn một cái bóng hè sang. Cũng như vậy, mùa thu cụ chỉ chấm phá vài nét thôi mà ta ngỡ như cả trời thu như hiện ra trước mắt:
Nửa năm hơi tiếng vừa quen, sân ngô cành bích đã chen lá vàng
Hình ảnh lá ngô đồng thu sang trong thơ văn tưởng đã nhàm, đã cũ, vậy mà bằng bút pháp của thi nhân, nó hiện ra, đầy mới mẻ và đẹp đẽ biết bao, hay :
''Vi lô san sát hơi may
một trời thu để riêng ai một mình''
'' Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng Phong thu đã nhuốm màu quan san''.
Như lúc thi nhân tả đông, từng ý thơ như nhuốm cái lành lạnh của ngày giá, vương vương cái ảm đạm của những ngày buồn :
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

-Cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều luôn nhuốm nặng nỗi niềm con người, đọc thơ mà cảnh như tan ra, tất cả những gì đọng lại trong lòng ta là lòng người được đặt trong một không gian hoàn toàn đồng điệu. Nguyễn Du không ép thiên nhiên phải hiểu nỗi lòng người như thi sĩ cổ, thi nhân tự nhiên cho cảnh tìm đến người, và người bước “lần” đến cảnh. Cảnh – người, đó là cả hai đối tượng mà thi nhân hướng tới – họ như người bạn tri kỷ tri âm, cùng vui cùng buồn, họ tìm đến nhau để tạo nên sự hòa hợp hai chiều tuyệt vời – trong cảnh có người – trong lòng người lại nhuốm màu cảnh vật. Sự kết hợp giữa tâm thức và thứ vô tri đã thổi vào cảnh vật một sức sống mãnh liệt, để cảnh vật mang những xúc cảm riêng tư ~ người và cảnh , hai là một, mà một tựa như hai, Nguyễn Du đã có câu tuyên ngôn về sự giao hòa hiếm có ấy
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Dẫn chứng :
Ví như khi Kiều trở về nhà sau tiết thanh minh
Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Câu thơ không chỉ họa ra rõ cái buổi chiều xuân, đồng điền tĩnh mịch, cảnh vật thanh thanh, mà nó còn gợi ra những tâm tình của khách du xuân trở về.
8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Tám ý thơ không đơn thuần tả cảnh, cảnh mở ra là để dẫn dắt người đọc đến một thế giới nội tâm lung linh xúc cảm : Mọi nét bút của thi nhân đều bắt đầu bằng hai chữ “buồn trông”, cái “buồn” vời vợi của người con gái xa nhà ấy đã trở thành điệp khúc chủ đạo, thành mạch nguồn xuyên suốt tám câu thơ. Bức tranh “nửa tình nửa cảnh” thiên biến nhiều nét vẽ, mỗi nét một sắc, mỗi nét một hình, song nét nào cũng bâng khuâng tâm trạng :
Cánh buồm chiều thấp thoáng trôi trong một bể khói sương: mở khoảng lặng cho nỗi nhớ nhà, nhớ song thân ùa về, thẳm thẳm nỗi niềm lẻ loi, đơn độc.
Sắc hoa trôi man mác giữa ngọn nước mới sa : nỗi lo số phận chìm nổi lênh đênh, còn đâu nữa những ngày “trướng rủ màn che” êm ấm.
Nội cỏ rầu rầu : nỗi buồn bàng bạc vỡ òa ra cả không gian
Dội lên một tiếng sóng gầm kinh hãi : điềm báo những giông tố sắp nổi cuốn lấy cuộc đời nàng.
~> Tiếng sóng gầm như nốt nhấn dự dội, kinh hoàng, khép lại bản ca bi kịch ở lầu Ngưng Bích
Hay:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tớ liễu bóng chiều thiết tha
Âu ta ngỡ như cảnh vật là người bạn tâm tình luôn am hiểu lòng nhân vật.
- Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du đầy màu sắc
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Hay :
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Hoặc :
Long lanh đáy nước in trời, thành xây khói biếc non phơi bóng vàng..
Nguyễn Du rất chú trọng sắc màu trong khi tả cảnh sắc, dầu vậy, màu sắc của thi nhân thường nhuốm buồn.

-Thơ văn tả thiên nhiên, người dùng nhiều điển tích , điển cố, và hơn cả là từ ngữ dân gian – tính dân tộc đã trở thành nét đặc sắc tiêu biểu :
Có câu “cỏ áy” gì gì đấy, >”< Ai còn nhớ câu ấy, xin bổ sung giúp tớ
Hoặc các điển tích thường gặp : sân Lai, gốc Tử,vv..

Kết :
“ Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta. Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời , mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều).”



Câu thơ nào ..---> Là sự phảng phất bóng thiên nhiên mờ nhạt đến kì diệu
( Sẽ đỡ lặp hơn)
 
F

freakie_fuckie

Ý chính ~
“Sự phán đoán cái đẹp đã không phân minh, trông cái đẹp đã không biết được đẹp vì cái gì, thời đứng trước cảnh thiên nhiên làm sao phân tích cho được vẻ đẹp của tạo vật? Đã không phân tích được những vẻ đẹp, thời tình cảm dù có cũng hồ đồ, như thế văn miêu tả, tất cũng mập mờ không đúng được"





~> chỗ này sao bạn yêu bôi tím của người ta. Người ta trích lời nhà phê bình văn học chứ bộ :((~

@ chỉ chỉ ~ bài quê hương của Tế Hanh nữa kìa
@ người ta đi thi về đây nài :(( người ta làm có hơn một tờ mà có thằng chém gần 3 tờ đây này :((~
 
A

annhinhanh_1997

Tớ mượn njk con bạn.
Bôi tím cái chỗ ấy vì tớ thấy mày dẫn dắt nó còn rời rạc và có gì đó gượng ép lắm đới.
Tớ phát biểu và mày cứ thế cắt câu mà nói lại tớ nhé.
Ý chính thì tớ chưa đọc. Chỉ mới đọc được phần đầu và nhìn chung bài mày còn lặp nhiều lắm đới. Đi thi cẩn thân đó ( b-( tớ nhầm mày ms thi xong)
Làm được bài hem mày:-? ( Sr em spam tý ạ)
Quê hương hả :-o?
Mày chơi khó tớ rồi. Điểm yếu của tớ nó nằm ở chỗ đấy đấy. Sọ nhất quê hương vs nhớ rừng. Nhưng cứ để đó tớ xơi coi đã :-*.
Thi 1 tờ là mấy mặt mày? Tớ làm hết 2 tờ giấy thi cơ đới 8-}. Tớ phục tớ sát đất =))
 
Top Bottom