2-Giai đoạn xây dựng hoà bình, chủ nghĩa xã hội (1954-1964)
Văn xuôi giai đoạn này mở rộng đề tài trên nhiều phạm vi cuộc sống:
- Viết về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thành công đáng kể nhất là " đất nước đứng lên"( Nguyên Ngọc) được tặng giải nhất về truyện và ký của Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955 , "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng vơi chất hiện thực rất đặc biệt của cuộc chiến đấu và cảm hứng anh hùng ca chi phối đã tạo nên vị trí và tầm vóc riêng của tác phẩm. "Cao điểm cuối cùng" của Hữu Mai và " trước giờ nổ súng" của Lê Khâm đều là những trang viết có giá trị.
- Tái hiện mảng đời sống trước cách mạng với cách nhìn khả năng phân tích và sức khái quát mới có tiểu thuyết " tranh tối tranh sáng" (Nguyễn Công Hoan), " mười năm"(Tô Hoài), " cửa biển" (Nguyên Hồng), "vỡ bờ" (Nguyễn Đình Thi).
- Đề tài hợp tác hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá XHCN cũng trở nên hấp dẫn với nhiều cây bút. tính chất mới mẻ trong hình thức sản xuất tập thể và những khó khăn thực sự cua công việc là một thử thách lớn với năng lực người viết. Đào Vũ, Vũ Thị Thường, Chu Văn, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên.là những người có công khai thác miền đất này.
- Về đề tài Miền Nam, các nhà văn Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng đều có những tác phẩm hấp dẫn viết về quê hương, con người , cảnh vật Miền Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm "một chuyện chép ở bệnh viện" của Bùi Đức Ai, đặc biệt hình ảnh của người phụ nữ miền Nam dũng cảm vượt lên những thử thách trong chiến đấu được người đọc hoan nghênh.
Em hãy cho biết cảm hứng chủ đạo của thơ ca Việt Nam giai đoạn 1954- 1964
Thơ được mùa lớn. Thơ viết về đất nước mở ra nhiều hướng khai thác và sáng tạo mới mẻ:
- Nhiều cây bút thể hiện những cảm hứng đẹp đẽ về CNXH. Tin cậy, mơ ước, chan hoà với cuộc sống mới: Huy Cận về vùng mỏ trong 4 thángmà đã có những tập thơ: "trời mỗi ngày lại sáng", " đất nở hoa", " bài thơ cuộc đời". Tố Hữu viết " gió lộng" với cảm hứng " gió lộng đường khơi rộng đất trời". Chế Lan Viên viết " ánh sáng và phù sa" với ý tưởng : ánh sáng của lý tưởng là phù sa bồi đắp cuộc đời. Xuân Diệu với "riêng chung"; Nguyễn Đình Thi với " bài thơ Hắc Hải"; Hoàng Trung Thông với "những cánh buồm". Đó là những tác phẩm nằm trong mạch ca ngợi đất nước giàu đẹp sau những năm tháng chiến tranh vất vả , gian nan.
- Cảm nhận sâu sắc nỗi đau của miền Nam đang trong máu lửa, nhớ thương quê Nam vời vợi xa cách, Tế Hanh có các tập thơ "Gửi miền Bắc, Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương". Từ trong lòng miền Nam Thanh HảI, Giang Nam đã có những bài thơ hay như " Mồ anh hoa nở", " Quê hương". Các nhà thơ Tố Hữu , huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu đều có những sáng tác về tình cảnh đất nước bị chia cắt. tuy nhiên chỉ vài năm sau khi miền Nam bước vào thời kỳ đồng khởi thì cảm hứng thơ chuyển dần từ tiếng nói nhớ thương sang tình cảm cổ vũ, động viên phong trào đấu tranh ở quê nhà.
Kịch ở giai đoạn này cũng có những bước phát triển đáng kể: Sự tập trung của đông đảo đạo diễn, diễn viên, tác giả sân khấu và công chúng thành thị góp phần thúc đẩy sự phát triển của kịch. Các vở: "Một Đảng viên" (Học Phi); "Quẫn" (Lộng Chương); "Chị Nhàn" ( Đào Hồng Cẩm) là nhữg vở kịch quen thuộc với khán giả. Kịch nước ngoài được trình diễn với nhiều vở được dàn dựng công phu.
Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1965- 1975) văn học đã có những đổi mới như thế nào so với các giai đoạn trước?( Đặc biệt là thơ ca)?
1955 - 1964:
- Nội dung bao trùm: Hình ảnh người lao động, những đổi thay của con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội với cảm hứng lãng mạn, lạc quan…
- Văn xuôi: mở rộng đề tài, bao quát nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống.
· Đề tài kháng chiến chống Pháp (Sống mãi với thủ đô, Cao điểm cuối cùng, Trứớc giờ nổ súng…)
· Đề tài hiện thực đời sống trước cách mạng tháng Tám (Vợ nhặt, Mười năm, Vỡ bờ…)
· Đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với sự đổi đời của con người (Sông Đà, Mùa lạc, Cái sân gạch…)
- Kịch nói: một số tác phẩm được dư luận chú ý.