Văn thuyết minh.

R

ruaconhaykhoc

Nguyễn Du, một doanh nhân văn hóa thế giới, cũng có thể nói, ông là nhà thơ lớn của dân tọc, ông để lại cho đời sau vô vàn các tác phẩm gồm chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm chữ Nôm nỗi tiếng là "truyện Kiều" còn tác phẩm chữ Hán đặc sắc là "độc tiểu thanh kí". Cũng giống như "truyện kiều", tác phẩm "DTTK" cũng mang nội dung về cuộc đời và số phận của người con gái thời phong kiến, có sắc có tài nhưng bạc mệnh.

Nguyễn Du đã hết sức khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ và các biên pháp nghệ thuật trong bài thơ để cho chúng ta thấy được và đồng cảm với thân phận của nàng Tiểu Thanh ( viết tắt : TT). Tiểu sử của nàng TT là một số phận nghiệt ngã đầy vết thương lòng. Nàng sinh ra trong 1 gia đình nông dân nghèo. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải vào làm vợ lẽ cho một thương gia giàu có. vợ cả ghen, nên đã xây biệt lập một căn nhà nhỏ trên núi Cô Sơn và bắt nàng sống một mình trên đó. Buồn tủi cho số phận của mình nên TT đã viết một tập thơ để ghi lại tâm trạng của mình lúc bấy giờ. Nàng TT buồn, uất ức mà chết khi nàng đang ở độ tuổi 18. Nàng chết nhưng mụ vợ cả vẫn chưa hết ghen và đem đốt tập thơ của nàng, may mà còn sót lại một vài bài. được người đời ghi chép và đặt tên là phần "dư cảo". Phần "dư cảo" ấy đã được NGuyễn Du đọc và , thấu hiểu về số phận và cuộc đời của nàng TT. Nguyễn Du đã viếng nàng qua tập thơ còn sót lại đã hơn 300 năm, ông khóc thưong cho số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh cũng như ông khóc thương cho chính bản thân mình.
Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
PHong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tớ Như ?
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du đã đưa chúng ta đến một vùng đất đẹp, thơ mộng là tháng cảnh Tây hồ. Nơi mà gắn liền với gia thoại và cuộc đời của nàng TT. Tây hồ, ngày xưa là một vừon hoa, với một cuộ sống tưoi đẹp. Nhưng ba trăm năm trôi đi, vườn hoa bây giơ đã thành một gò hoa xơ xác
Tây Hồ hoa uyển thẩn thành khư
Độc đêíu song tiền nhất chỉ thư
( Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mãnh giấy tàn).
Đã hơn 300 năm, thời gian thật nghiệt ngã, đã xóa đi hết tất cả và nơi đây chỉ còn lại gò hoang xơ xác, còn lại những nỗi buồn khôn nguôi cho số phận của nàng TT, cũng như câu : "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". "Độc" là cô độc, "nhất" là lẻ loi, một mình. MỘt người cô đơn lẻ loi nơi trần thế, một người buồn bã cỏi âm ti. Đứng bên cửa sổ, lòng ND như nặng trĩu đi, ND viếng nàng qua tập thơ còn sót lại, dường như ông đã đồng cảm, hai người đồng hội đồng thuyền, ông khóc thương cho thân phận người con gái thời phong kiến.
Chi phấn hữh thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
( Son phần có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương ).
"Son phấn" tượng trưng cho sắc đẹp của nàng TT, "văn chương" tượng trưng cho tài năng của nàng. "son phấn" và "văn chương" là 2 vật vô tri vô giác nhưng dường như đã được tác giả thổi hồn vào chúng một cách mãnh liệt. Để rồi son phấn cũng phải căm hờn thế lực bạo tàn thời phong kiến. Văn chương tuy không có hồn. nhưng khi đốt đi, không trờ thành tro bụi tất cả, mà còn vương lại nỗi oan uất khôn xiết của nàng TT, vương lại để tố cáo các thế lực phong kiến lức bấy giờ.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
( Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang).
Dường như tài hoa, bạc mệnh là cái án bất di bất dịch của những ai trong giới phong lưu, hỏi trời, trời không trả lời được. Có tài, có sắc nhưng họ không được sống trong hạnh phúc, mà cuộ đời của họ luôn chông chênh "bảy nổi ba chìm". Nỗi oan tình của nàng TT được Nguyễn Du nâng cấp trờ thành nỗi oan của giai cấp phơng lưu, cho nên ông mới có câu :
Có tài mà cậy chi tài
Cữ tài liền với chữ tai một vần.
hình như đó là vòng luân hồi của tạo hoá. Trời sinh con người có tài, có sắc ra nhưng lại gieo cho họ cuộc đời đầy giông tố thì thật là bất công với nàng TT. Nhưng con người không thể trả lời được, đành ngầm ngùi mà thương sót cho số phận của mình.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân Khấp Tồ Như ?
( Chẵng biết ba trăm năm lẽ nửa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ? )
Nguyễn DU đã viếng nàng TT qua tập thơ còn sót lại đã hơn ba trăm năm, ông khóc thương cho thân phận của nàng, tài hoa nhưng bạc mệnh, NHưng rồi ông lại khóc thương cho chính bản thân ông. Ông không biết rằng, ba trăm năm sau, ai sẽ khóc thương cho thân phận của ông giống như ông đã khóc thương cho nàng TT bởi vì cái giá phải trả của giới phong lưu là quá đắt. Ông lo sợ sẽ không ai thương sót cho số phận và cuộc đời của ông.

Bài thơ "DTTK" của ND đã khắc họa được số phận của nàng TT thật bi đát. Ông đã đồng cảm và khóc thương cho số phận của nàng TT. Bài thơ mang một giá trị tinh thần nhân đạo sâu sắc. Để chúng ta thấy được, ND không chỉ biết thương người còn sống và ông cũng thương người đã khuất như nàng TT đây. Bài thơ đã đi sâu vào lòng người một cách nhẹ nhàng và sâu lắng, để lại cho đời sau một tác phẩm hay, đầy lòng nhân đạo













Nguồn Zing bolg
 
R

rutifuentoran

DÀN BÀI thuyet minhBÀI THƠ ĐỘC TIỂU THANH KÝ – NGUYỄN DU
Vấn đề cần làm rõ :
Sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du với người con gái tài hoa mệnh bạc
Nghệ thuật thơ chữ Hán Đường luật thể hiện cô đúc tâm sự Nguyễn Du trước thời cuộc.
Tinh thần tiếp thu di sản tinh thần Nguyễn Du của xã hội mới
DÀN Ý :
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
1. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX – không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện.
2. “Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người – nạn nhân của chế độ phong kiến.
3. Trong đó, Độc Tiểu Thanh ký là một trong những sáng tác đưọc nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhà thơ.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
A/ Định hướng phân tích :
1. Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ký” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.
2. Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.
B/ Chi tiết :
1. Hai câu đề : Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh :
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
a) Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vưòn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa – gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều. Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.
b) Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước, câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không phải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm vào trong hồn nhà thơ.
2. Hai câu thực :
Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
a) Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.
b) Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn hẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi ngưòi! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.
3. Hai câu luận :
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến :
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.
b) Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.
c) Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những ngưòi mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.
4. Hai câu kết :
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngưòi đời ai khóc Tố Như chăng)
a) Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan khiên bằng giọt nưóc mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. (Đó cũng là tâm trạng của Khuất Nguyên – “người đời say cả một mình ta tỉnh”, cách Nguyễn Du hai nghìn năm; của Đỗ Phủ, cách Nguyễn Du một nghìn năm : “Gian nan khổ hận phồn sương mấn”)
b) Nhà thơ tự thể hiện mình bằng tên chữ “Tố Như” không phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. Câu thơ còn là tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc ngưòi xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại một bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những ngưòi tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của một xã hội rẻ rúng tài năng.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ :
1. Đã hơn hai trăm năm trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn còn lưu giữ một tấm lòng với con người sâu sắc và chân thành. Đó là tình cảm không biên giới, vượt thời gian, xuất phát từ gốc rễ “thương người như thể thương thân” của dân tộc.
2. Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du – nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy :
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người
 
N

nhokquay98

Nguyễn Du, một doanh nhân văn hóa thế giới, cũng có thể nói, ông là nhà thơ lớn của dân tọc, ông để lại cho đời sau vô vàn các tác phẩm gồm chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm chữ Nôm nỗi tiếng là "truyện Kiều" còn tác phẩm chữ Hán đặc sắc là "độc tiểu thanh kí". Cũng giống như "truyện kiều", tác phẩm "DTTK" cũng mang nội dung về cuộc đời và số phận của người con gái thời phong kiến, có sắc có tài nhưng bạc mệnh.

Nguyễn Du đã hết sức khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ và các biên pháp nghệ thuật trong bài thơ để cho chúng ta thấy được và đồng cảm với thân phận của nàng Tiểu Thanh ( viết tắt : TT). Tiểu sử của nàng TT là một số phận nghiệt ngã đầy vết thương lòng. Nàng sinh ra trong 1 gia đình nông dân nghèo. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải vào làm vợ lẽ cho một thương gia giàu có. vợ cả ghen, nên đã xây biệt lập một căn nhà nhỏ trên núi Cô Sơn và bắt nàng sống một mình trên đó. Buồn tủi cho số phận của mình nên TT đã viết một tập thơ để ghi lại tâm trạng của mình lúc bấy giờ. Nàng TT buồn, uất ức mà chết khi nàng đang ở độ tuổi 18. Nàng chết nhưng mụ vợ cả vẫn chưa hết ghen và đem đốt tập thơ của nàng, may mà còn sót lại một vài bài. được người đời ghi chép và đặt tên là phần "dư cảo". Phần "dư cảo" ấy đã được NGuyễn Du đọc và , thấu hiểu về số phận và cuộc đời của nàng TT. Nguyễn Du đã viếng nàng qua tập thơ còn sót lại đã hơn 300 năm, ông khóc thưong cho số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh cũng như ông khóc thương cho chính bản thân mình.
Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
PHong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tớ Như ?
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du đã đưa chúng ta đến một vùng đất đẹp, thơ mộng là tháng cảnh Tây hồ. Nơi mà gắn liền với gia thoại và cuộc đời của nàng TT. Tây hồ, ngày xưa là một vừon hoa, với một cuộ sống tưoi đẹp. Nhưng ba trăm năm trôi đi, vườn hoa bây giơ đã thành một gò hoa xơ xác
Tây Hồ hoa uyển thẩn thành khư
Độc đêíu song tiền nhất chỉ thư
( Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mãnh giấy tàn).
Đã hơn 300 năm, thời gian thật nghiệt ngã, đã xóa đi hết tất cả và nơi đây chỉ còn lại gò hoang xơ xác, còn lại những nỗi buồn khôn nguôi cho số phận của nàng TT, cũng như câu : "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". "Độc" là cô độc, "nhất" là lẻ loi, một mình. MỘt người cô đơn lẻ loi nơi trần thế, một người buồn bã cỏi âm ti. Đứng bên cửa sổ, lòng ND như nặng trĩu đi, ND viếng nàng qua tập thơ còn sót lại, dường như ông đã đồng cảm, hai người đồng hội đồng thuyền, ông khóc thương cho thân phận người con gái thời phong kiến.
Chi phấn hữh thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
( Son phần có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương ).
"Son phấn" tượng trưng cho sắc đẹp của nàng TT, "văn chương" tượng trưng cho tài năng của nàng. "son phấn" và "văn chương" là 2 vật vô tri vô giác nhưng dường như đã được tác giả thổi hồn vào chúng một cách mãnh liệt. Để rồi son phấn cũng phải căm hờn thế lực bạo tàn thời phong kiến. Văn chương tuy không có hồn. nhưng khi đốt đi, không trờ thành tro bụi tất cả, mà còn vương lại nỗi oan uất khôn xiết của nàng TT, vương lại để tố cáo các thế lực phong kiến lức bấy giờ.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
( Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang).
Dường như tài hoa, bạc mệnh là cái án bất di bất dịch của những ai trong giới phong lưu, hỏi trời, trời không trả lời được. Có tài, có sắc nhưng họ không được sống trong hạnh phúc, mà cuộ đời của họ luôn chông chênh "bảy nổi ba chìm". Nỗi oan tình của nàng TT được Nguyễn Du nâng cấp trờ thành nỗi oan của giai cấp phơng lưu, cho nên ông mới có câu :
Có tài mà cậy chi tài
Cữ tài liền với chữ tai một vần.
hình như đó là vòng luân hồi của tạo hoá. Trời sinh con người có tài, có sắc ra nhưng lại gieo cho họ cuộc đời đầy giông tố thì thật là bất công với nàng TT. Nhưng con người không thể trả lời được, đành ngầm ngùi mà thương sót cho số phận của mình.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân Khấp Tồ Như ?
( Chẵng biết ba trăm năm lẽ nửa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ? )
Nguyễn DU đã viếng nàng TT qua tập thơ còn sót lại đã hơn ba trăm năm, ông khóc thương cho thân phận của nàng, tài hoa nhưng bạc mệnh, NHưng rồi ông lại khóc thương cho chính bản thân ông. Ông không biết rằng, ba trăm năm sau, ai sẽ khóc thương cho thân phận của ông giống như ông đã khóc thương cho nàng TT bởi vì cái giá phải trả của giới phong lưu là quá đắt. Ông lo sợ sẽ không ai thương sót cho số phận và cuộc đời của ông.

Bài thơ "DTTK" của ND đã khắc họa được số phận của nàng TT thật bi đát. Ông đã đồng cảm và khóc thương cho số phận của nàng TT. Bài thơ mang một giá trị tinh thần nhân đạo sâu sắc. Để chúng ta thấy được, ND không chỉ biết thương người còn sống và ông cũng thương người đã khuất như nàng TT đây. Bài thơ đã đi sâu vào lòng người một cách nhẹ nhàng và sâu lắng, để lại cho đời sau một tác phẩm hay, đầy lòng nhân đạo

Chú ý đề bài yêu cầu là dàn bài!
 
Last edited by a moderator:
T

thiensubaoho_9a

Bên cạnh "Truyện Kiều" đặc sắc về nội dung lẫn nghệ thuật, ND cũng có nhiều tập thơ nổi tiếng như "Nam trung tập ngâm", "Bắc hành tạp lục". Tiêu biểu trong số đó là bài "ĐTTK"-bài thơ bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ với một người con gái tài hoa mà bạc mệnh và có nột diều gì đó gần gũi với Thuý Kiều:
Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
PHong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tớ Như ?
Tiểu Thanh là người co gái họ Phùng, có sác có tài nhưng lại phải chịu cảnh lẽ mọn. Vì cả ghen, nên vợ lớn bắt nàng phải sống một nơi xa lạ, chốn Tây Hồ hiu quạnh buồn vì cô dơn, nàng đã chết vào lúc tuổi xuân đẹp nhất, xuân sắc nhất của một người con gái.
Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

( Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mãnh giấy tàn).

Giữa k gian bao la, hiu quạnh của Tây Hồ, NDu cảm thấy tiếc nuối, khi nghe nói rằng nơi đay trước kia cảnh tri vốn rất đẹp vậy mà giờ đây, còn chăng chỉ là đống gò hoang, vắng lặng. Nghix đến nàng Tieu Thanh phải sống ở nơi đây, cô quạnh một mình như thế, Tố Nhuw càng xót xa hơn cho số phận bất hạnh của nàng, như nghe đang có tiếng ai thổn thức một cách uất ức. Còn với nguời đọc, hình ảnh ấy đã đạp mạnh vao tâm can của họ bởi sự xót thương, tiếc nuối là nơi gò hoang ấy lại chôn vùi một tiểu xuân tài sắc, một đoá hoa bị bão tố cuộc đời vùi dập.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư

( Son phần có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương ).

Son phấn chôn vùi vẫn còn hận, văn chương bị đốt vẫn còn vương.Thế còn con người thì sao? TT đã bị phũ phàng, bị bạc bẽo như thế thì cái hận càng lớn, càng uất ức hơn sao. Nàng bị bóp nghẹt trong khi tuổi thanh xuân còn đang phơi phới. Nếu như trong “Văn Chiêu hồn” Ndu đã từng viết:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế, biết là tại ai?”
Thì ở đây, nhà thơ đã trách cứ trời đất sao lalij nỡ chôn vùi một thân phận tài hoa như thế.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
PHong vận kì oan ngã tự cư

( Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang).

TT đã bị vùi chôn cùng với son phấn, văn chương.Tất cả giờ đây đã trở thành một “nỗi hờn kim cổ”. Đã 300 năm trôi qua, vậy mà ND vẫn khóc thương cho TT. ND đã nêu lên bi kịch nhưng k sao tìm ra ánh sáng cứu đời, cứu mình, Cái tôi tìm ẩn của ND tuy bộc phát nhưng vẫn bị xã hội chi phối, ông cũng k thể thoát ra đc bức tường kiên cố của chế độ phong kiến, xã hội mà ngàn năm nay nó đã đc dựng lên để giam hãm con người.
Hai câu kết của ND đã chuyển hẳn ý thơ sang tự thương mình:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tớ Như ?

( Chẵng biết ba trăm năm lẽ nửa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ? )

HAi câu kêt như mang nặng nỗi hoang mang, lo sợ củ Tố Như : Ngày hôm nay, trước câu chuyện của nàng TT, ta đã khóc vói một tấm lòng rất chân thành, trinh bạch. Nhưng ta tự hỏi, rồi đây khi t/g trôi qua đúng 300 năm khi mọi thứ biến dạng chẳng còn như xưa, trong cõi thiên hạ bao la này, có ai sẽ âm thầm nhỏ cho ta một giọt lệ chân thành tưởng nhớ k?
HAi câu kết như một dấu chấm lửng đem đến bao tò mò cho ng đọc. Cuối cùng ND cũng đã giải bày dc tấm lòng của mình: sự sợ hãi, lo sợ rồi dây cho mình cũng chết một cách thật oan khốc, thê thảm. Khóc Tố Như nhưng thật ra ND đã làm bài "điếu văn" trước cho mình, ông cảm thấy cô dơ, trơ trọi trên thế gian, cảm thấy phận mình giống TT.

BÀi thơ thể hiện tấm lòng nhân đạo của ND đv những kiếp người. Ông k hề quên lãng những thân phạn bạc dù bánh xe thời gian dưa họ vào dĩ vãn. Cái vĩ đại của ND là tình cảm nhân đạo của ông k dừng lại ở phạm vi quốc gia mà còn lan rộng ra ngoài biên giới. Tuy nhiên, phía sau lòng thương cảm con người là một sự tự thương mình, một trái tim luôn âm ỉ những nỗi đau thời thế, nỗi đau k có tri kỉ. Thạt ít ai có dc suy nghĩ vượt thời đại như Nguyễn Du. Có lẽ hoàn cảnh lúc bấy giờ đã hình thành trong ông hai con ng: Con người bi kịch và con người thanh cao. Giờ đây, có lẽ ND đã ược thỏa nguyện và cái án phong lưu kia k còn là cái án oan nghiêt nữa,. ND đã găn liền với niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, của danh nhân văn hóa thế giới. :):):):):):):)@};-@};-@};-@};-@};-

:):):) hi, có gì sai sót mong các bạn bỏ qua nha. Mình đánh vội nên cũng có một và từ sai. Mỏi tay ghê á. hi...................... :):):)

Chú ý đề bài yêu cầu là dàn bài!
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom