[văn] Thuyết minh nguyễn trãi

K

keodungkd_271

Giới lý luận và những người quan tâm đến chính trị thế giới đã từng biết đến một khái niệm dân tộc nổi tiếng mang tính phổ quát, lần đầu tiên được Stalin đưa ra trong tác phẩm "Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, song điều mà các học giả thế giới ít biết đến là, người đầu tiên trong lịch sử thế giới cố gắng tìm kiếm và đã đưa ra được một định nghĩa dân tộc "tương đối có hệ thống và toàn diện" lại là một người Việt Nam. Đó chính là Nguyễn Trãi, nhà văn hoá lớn đã được thế giới công nhận và xếp hạng.
Trong tập kỷ yếu "Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi", nhiều tác giả đã chỉ ra rằng Nguyễn Trãi là nhà quân sự, chính trị, ngoại giao... nhà văn hoá lớn. Cống hiến của Nguyễn Trãi đã được một số tác giả nói tới. Chẳng hạn, theo Giáo sư Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Trãi "đã đề cập tới các yếu tố hình thành dân tộc mà khoa học chính trị của thế kỷ XX này ít nhiều phải nhắc tới". Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, "Dân tộc ta có gần 5 thế kỷ độc lập lâu dài từ thời Ngô Quyền năm 938 đến đầu thế kỷ XIV. Chính là 5 thế kỷ này, dân tộc Việt Nam (theo ý nghĩa khoa học tiến bộ nhất của khái niệm dân tộc) được hình thành chỉ còn đợi điều kiện để hoàn chỉnh. Đó là sự tham gia tích cực, bền bỉ của quảng đại nhân dân vào việc cứu nước và đựng nước. Điều kiện đó đã xuất hiện với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lãnh thổ chung, văn hoá chung, tập quán, nhất là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đủ làm ra thứ keo sơn kết thành một dân tộc , một quốc gia dân tộc bền vững ngay trong thời Trung đại phong kiến mà không phải chờ đến chủ nghĩa tư bản phát triển tạo thành một thị trường chung. Có đủ điều kiện cho sự hình thành dân tộc song ý thức một cách rõ rệt nhất, đầy đủ nhất về sự hình thành đó là cống hiến tinh thần của Nguyễn Trãi, người có trình độ văn hoá cao, có kiến thức quốc học lớn....
Như vậy, các tác giả Việt Nam đã đề cập ít nhiều đến đóng góp về khái niệm dân tộc của Nguyễn Trãi, song đáng tiếc là chưa có những bài chuyên sâu về vấn đề này. Bài viết nhỏ này không có tham vọng làm điều đó, mà chỉ dừng lại ở việc so sánh, đối chiếu quan niệm về dân tộc của Nguyễn Trãi với các quan niệm về dân tộc có trước và sau Nguyễn Trãi để thấy được sự cống hiến của ông về vấn đề này, một sự đóng góp mang tầm cỡ thế giới, ở thế kỷ XV, mà thế giới ít biết đến.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, trước Nguyễn Trãi đã có nhiều nhà tư tưởng tìm cách đưa ra định nghĩa về dân tộc, các quan niệm đó có những giá trị nhất định. Mầm mống của nó phải chăng đã có từ thời Lý Bí. Dân tộc lúc đó thường được gọi là thành hay bang, quốc hay nước. Sau khi quét sạch quân xâm lược ở thế kỷ VI, Lý Bí đã vứt bỏ luôn tên gọi mà Trung Quốc đã áp đặt cho nước ta như Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam đô hộ phủ… và đặt tên nước là Vạn Xuân (sau này nhà Đinh gọi là Đại Cồ Việt, nhà Lý gọi là Đại Việt) để chứng tỏ sự cùng tồn tại ngang hàng với các nước lớn ở Trung Hoa. Cùng với việc đổi tên nước là việc đổi tên hiệu người đứng đầu từ Vương sang Đế: từ Trưng Vương, Triệu Việt Vương sang Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Đinh Tiên Hoàng Đế. Điều đó thể hiện tinh thần độc lập tự chủ của người Việt. Sau này, "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn đã thể hiện rõ Việt Nam là một quốc gia dân tộc độc lập về chính thể, có quốc hiệu, niên hiệu, đế hiệu và kinh đô riêng. Thời Bắc thuộc, để chống lại sự thống trị: "... trong bộ tộc Việt lúc đó đã có nhiều điểm chung về nguồn gốc tộc người, về kinh tế, tiếng nói, phong tục, tập quán… nhưng họ không thể biết hết các điều đó vì trình độ kiến thức hạn chế. Dân tộc là một phạm trù lịch sử, gắn liền với một giai cấp nhất định trong lịch sử. Ở Việt Nam, trước và sau khi giành được độc lập, phạm trù dân tộc nằm trong hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến. Cùng với thời gian, khái niệm dân tộc được mở rộng cả về bề rộng lẫn bề sâu, cả về không gian và thời gian, cả về đất đai và văn hoá cho phù hợp với đối tượng mà nó khái quát. Ở Lý Thường Kiệt, quan niệm đó còn khoác cái vỏ thần bí và trừu tượng:
"Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư".
Điều đó có nghĩa là Việt Nam phải được độc lập vì “sách trời" đã ghi... Nhưng đến Trần Quốc Tuấn, quan niệm đó đã có sự thay đổi: phải đánh đuổi giặc để bảo vệ quyền lợi cho gia tộc, đất nước, để rửa nhục cho nước. Sử gia Lê Văn Hưu (thế kỷ XII) quan niệm tổ quốc, dân tộc là "nhà tông miếu, nền xã tắc" , còn Trần Quốc Tuấn (thế kỷ XIII) quan niệm đó là "thái ấp, bổng lộc, đề
nói Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt suất vì: ông có khồi lượng văn chính luận lớn như "quân trung từ mệnh tập" có sức mạnh của 10 vạn quân "bình ngô đại cáo" là một án thiên cổ hùng văn là bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam ... ông là nhà văn chính luận bậc thầy với lập luận chặt chẽ ý nghĩa sắc bén giọng điệu hùng hồn có sức mạnh chiến đấu cao đạt đến trình độ nghệ thuật mẫu mực với tư tưởng chủ đạo nhân nghĩa yêu nước thương dân. Chúc bạn học tốt
 
Top Bottom