văn nghị luận lớp 8 số 7

N

ngoctrinh2000

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Mọi người làm ơn giúp mình làm hộ nhưng đề văn sau ạ:
Đề 1: Khát vọng tự do qua các văn bản thơ Khi con tu hú và Ngắm trăng
Đề 2: Tình yêu nước sâu sắc qua các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ
Đề 3: Chứng minh Nước đại việt ta là áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc
Đề 4: Suy nghĩ của em về một tấm gương vượt lên số phận
Rất cảm ơn mọi người.
 
Last edited by a moderator:
T

thaonguyen25

Ừm,tớ viết thân bài thôi nhé!
Có lẽ,trong cuộc sống này còn nhiều người chưa được may mắn,nhưng quan trọng nhất là họ biết quên đi mặc cảm bản thân,sống có ích,có ý nghĩa và nick vujicic là một người như thế.
Anh sinh ngày 4 tháng 12 năm 1982 là một người truyền bá Phúc Âm và nhà diễn thuyết truyền động lực người Úc gốc Serbia, khi được sinh ra đã không có tứ chi. Nick bị hội chứng tetra-amelia bẩm sinh, một loại rối loạn hiếm gặp, gây ra sự thiếu vắng cả 4 chi. Từ thuở ấu thơ, anh đã phải đấu tranh cả về tinh thần, tình cảm cũng như thể xác, nhưng rồi cuối cùng anh đã quyết định đối mặt với khuyết tật của mình. Năm 17 tuổi, Nick thành lập tổ chức phi lợi nhuận của riêng mình với tên gọi Life Without Limbs (nghĩa là "Cuộc sống không có tay chân"). Vujicic đi khắp nơi trên thế giới để diễn thuyết truyền động lực về cuộc sống của một người khuyết tật mang hy vọng và mong muốn tìm được ý nghĩa cuộc sống. Nick cũng nói về đức tin của anh, rằng Chúa có thể sử dụng bất kì tấm lòng nào sẵn sàng làm công việc của Ngài và rằng Chúa là đấng đắc thắng mọi sự khuyết tật. Anh đã tốt nghiệp đại học và trở thành một diễn giả nổi tiếng về chủ đề làm chủ cuộc sống. Hiện tại Nick đang sinh sống ở Mỹ.
Cuộc đời của nick cũng không hiếm những ngày tăm tối,anh đã từng kể đã từng muốn tự tụ bằng cách dìm mình trong bồn tắm năm 8 tuổi.Sinh ra không đầy đủ chân tay,không lành lặn như bao người,nhưng ở nick luôn toát ra sự lạc quan,tự tin đến ngạc nhiên.....(còn tiếp)
 
T

thaonguyen25

Đề 4: (nguồn zing)
Có những con người không may mắn khi chào đời . Tạo hóa đã thật bất công với họ . Trong số ấy không ít người chấp nhận số phận, thở ngắn than dài ngậm ngùi cho qua ngày tháng . Nhưng , vẫn có rất nhiều người trong số họ đã ko chấp nhập sự bằng lòng , họ đã dũng cảm và bền bỉ vượt lên sự an bài của tạo hóa. Thật đáng quý !
Một Nguễn Ngọc Kí liệt cả hai tay vẫn kiên trì tìm cách viết bằng chân. Từ chỗ viết dc , đến viết đẹp là cả một quá trình . Không dừng lại ở đó , anh còn quyết tâm thực hiện giấc mơ đại học . Và , giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực của đời anh . Để hôm nay , anh trở thành thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí trên giảng đường Sư phạm . Đó còn là một Nguyễn Minh Phú , nạn nhân cảu chật độc màu da cam , mất cả hai tay tử khi cất tiếng khóc chào đời , không chịu thua số phận, vươn lên học tốt và học giỏi , giúp đỡ gia đình . Họ là những tấm gương vượt lên số phận , học tập thành công đáng để cho ta ngưỡng mộ , tự hào
Ở họ cái đáng quý nhất chính là nghị lực , ý chí vươn lên ko ngừng . Sự thua thiệt vốn rất dễ dẫn đến con ngươi mặc càm tự ti . Từ đó , không còn ham muốn , ước mơ , hoài bão . Con người sống lay lắt , trông chờ vào lòng thương hại của người khác . không, không phải là sống mà chỉ là tồn tại . Những tấm gương ấy đã không nằm trong số đó . Tạo hóa đã không công bằng với họ nưung ko có nghĩa lả lấy tất cả của họ . Họ vẫn còn một trái tim , một khối óc . Họ vẫn có thể sống đàng hoàng , tự tin như bao nhiêu người khác nếu họ biết vươn lên , chiến thắng số phận . Vâng , chính tình yêu và niềm tin vào cuộc đời đã tiế[ thêm ý chí và nghị lực . Để rồi chính sức mạnh ấy đã không phụ lòng những ngưởi thua thiệt . Hạnh phúc đã mỉm cười với họ . Dẫu hạnh phúc có đến muộn hơn , chật vật hơn nhưng dư vị của nó vẫn không vì vậy mà kém ngọt ngào hơn người khác.
Những tấm gương vượt lên số phận , thànnh công trong học tập ấy không chỉ giúp chúng ta thấm thía giá trị của ý chí và nghị lực mà còn hiểu sâu hơn ý nghĩa về một cuộc sống có ý nghĩa . Có lẽ hơn ai hết , họ hiểu cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta biết sống có ích , sống đẹp với nó. Sự thua thiệt lúc này lại trở thành phép thử đối với tình yêu cuộc sống trong mỗi trái tim con người ấy. Vậy nên họ đã không chịu an bải trưước số phận . Họ đã chứng tỏ được rằng , cuộc đời cuộc đời vẫn rất cấn đến sựa có mặt của họ trên thế gian này . Những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm vẫn đang từng ngày , từng phút . từng giây góp mặt cho đời . Sự đóng góp của họ thật đáng để chúng ta soi ngắm lại chính mình .
Thật buồn khi trong chúng ta , những học sinh , sinh viên đuợc tạo hóa ban tặng , ưu ái nhiều điều , vậy mà , một số họ lại chỉ biết ăn chơi , hưởng thụ . Xem nhẹ việc học tập , trau dồi đạo đức , nhân cách làm người , họ lao vào các chôu tò ra rất tự hào khi thấy mình sành điệu . Được khuyên nhủ , nhắc nhở , họ lại cuời nhạo vào những tấm gương cao đẹp ấy và buông ra những lời bất nhẫn . Thật đáng tiếc!
Hiểu vậy, biết để mỗi người trong chúng ta , nhất là thế hệ trẻ càng phải hiểu mình phải sống ra sao , sống thế nào cho xứng với chân giá trị làm người . Soi vào những tấm gương cao cả ấy để không ngừng hoàn thiện bản thân . Con đừơng dẫn đến thành công không bằng phẳng bao giờ . Vậy nên , càng phải thấm rằng : “ Trên đường dẫn đến thành công không có vết chân của kẻ lười biếng “ . Trên vạn dặm , hãy biết chọn một dặm đường và đi cho đến . Để một lúc nào đó quay lại nhìn lại . ta hiểu rằng , cuộc đời này đã có gương mặt của ta .
Tươn lai đang đợi chờ ta phía trước . Để có một tương lai rạng rỡ , mỗi chúng ta hãy sống nhiệt tình và trọn vẹn với hiện tai . Dẫu những ngày ta đang sống còn gian khổ , , khó khăn đến mức nào thì cũng hãy vững tin mà sống . Bạn hãy tự đi trên đôi bàn chân của chính mình , chắc chắn bạn sẽ tới cái đích mà bạn muốn!(nguồn zing)
 
L

lililovely

Nguyễn Trãi (1380-1442) là một nhà nho uyên bác, một nhà quân sự đa tài, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao lỗi lạc … của nưóc ta, hơn thế nữa ông còn được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới (1980). Nguyễn Trãi ko nhưng đựơc người nguời khâm phục ở tài quân sự mà còn khâm phục ông là một người tận trung ái quốc, yêu mến quê hưong đất nước tha thiết. Văn võ song toàn, cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước, đáng là bậc anh hùng nước ta. Với ~ chiến lược quân sự tài ba, lời lẽ chau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị, lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa, Luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nguyễn Trãi đáng là một đại văn hào của dân tộc.
Năm 1407, giặc Minh sang xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khỏi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mưòi năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo “Đại cáo bình Ngô” để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
Đại cáo bình Ngô hay một áng văn lớn bình phẩm về bọn “cuồng Ngô” T/p được viết bằng thể Cáo. Là thể văn nghị luận có thừ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có các loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch , cáo là thể căn hùng biện, do đó lời lẽ đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc.
“Đại cáo bình Ngô” là một “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thể hiện khí phách của dân tộc ta. Khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân Minh, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “Bình Ngô”, tuyên bố đẩt nước Đại Việt bước vào kỳ nguyên mới độc lập, thái bình bên vững muôn thuở. Đánh giá đầy đủ súc tích, sắc sảo về cuộc kháng chiến chống Minh gian khổ suốt mưòi năm trời mà nhân dân Đại Việt đã tiến hành dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Lê Lợi. Xuyên suốt tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa nguyên lí nhân nghĩa và yêu nước, thương dân. Đó là nguyên lí lớn nhất của dân tộc ta, cũng là cái nguyên tắc lớn nhất mà ông tuân theo. Việc nhân nghĩa phải có tác dụng yên dân và khẳng định rằng việc khiến yên dân chính là việc nhân nghĩa. Đồng thời khẳng định yên dân là làm cho dân được yên, ăn yên, ở yên, sống yên; làm cho nhân dân yên vui, khắp mọi nơi không có tiếng than vãn oán hờn. Quá trình phát triển bài văn cũng là để phát triển tư tưởng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa, tiêu chuẩn yên dân trong suốt bài văn, mặc dầu không được nhắc lại, nhưng vẫn sáng lấp lánh cả tác phẩm. Đoạn một tác giả nêu luận đề chính nghĩa dựa trên mối quan hệ giữa ba yếu tố là nhân nghĩa, đất và nước. Đồng thời nêu lên truyền thống vẻ vang của dân tộc và khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc. Chân lí về sự độc lập dân tộc đứng trên lập trưòng chính nghĩa. Đoạn 2: vạch trần tội ác của bọn giặc điên cuồng. Như là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm trên đất nước Đại Việt. Sang đoạn 3: Kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa. Ở đây tác giả tập trung khắc họa hình tượng Lê Lợi với cách xưng hô thể hiện sự khiêm nhường. Nêu lên nhưng phẩm chất tốt đẹp với tinh thần vượt khó kiên trì, lòng căm thù giặc sâu sắc, biết tập hợp và đoàn kết tòan dân, có chiến lược và chiến thuật tài tình, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa. Cho ta thấy đựơc Lê Lợi là hình ảnh tiêu biểu của những nguời yêu nước dám hi sinh quên mình đứng lên chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của một tập thể anh hùng trong quá trình kháng chiến. Tác giả còn sử dụng cách liệt kê để làm sáng rõ nhịp độ dồn dập của những trân chiến thắng. Đoạn 4: tuyên bố kết thúc chiến tranh mở ra một kỉ nguyên mới hòa bình và phát triển.
Đại cáo bình Ngô là áng văn chính luận với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc. Tác giả đã sử dụng phép liệt kê để làm sáng rõ nhịp độ dồn dập của những trân chiến thắng. Cuối bài với nhịp thơ dàn rải, trang trọng để khẳng định thế suy thịnh là tất yếu. Để đảm bảo vừa tăng cường sức thuyết phục vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi đã sử dụng đan xen, kết hợp hài hòa giữa hình ảnh mang tính chất khái quát với những hình ảnh có tính cụ thể, sinh động. Bài Cáo có sự kết hợp hài hòa giữa tư duy logic và tư duy hình tượng. Tư duy logic được thể hiện qua hệ thống luận điểm, trình tự lập luận chặt chẽ. Mở đầu nêu lên tiền đề có tính chất nguyên lí, chân lí làm chỗ dựa về mặt lí luận và để triển khai lập luận trong những phần sau.
sưu tầm
 
L

lililovely

Mùa xuân năm 1428, cuộc khánh chiến 10 năm của nghiã quân lam sơn chống quân minh kết thúc thắng lợi. nguyễn trãi thay lời lê lợi viết bình ngô đại cáo tổng kết cuộc kháng chiến và tuyên bố mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc đại việt. văn kiện lịch sử ấy đã trở thành 1 áng thiên cổ hùng văn , một tác phẩm bất hủ trong nền văn chương việt nam. bên cạnh giá trị tư tưởng lớn lao, ánh văn còn cho thấy 1 đặc điểm của văn chính luận . sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giũa lý kẽ và thực tế. Đoạn trích nước đại việt ta chính là phần 1 của tác phẩm bình ngô đại cáo. ở phần này, bằng lý lẽ sắc bén và những dẫn chứng thực tế giàu sức thuyết phục, nguyễn trãi khẳng định 2 chân lý làm nền tảng để phát triển nội dung bài cáo: tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập dân tộc đại việt.
Mở đầu bài cáo, nguyễn trãi nêu lên tư tưởng nhân nghĩa,việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân diếu phạt trước lo trừ bạo. Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của của nho giáo trung hoa, được hiểu là lòng thương người, là việc cần làm. cũng dung khái niệm nhân nghĩa,nhưng nguyễn trãi không nói nhân nghĩa chung chung. ông xác định rõ ràng cốt lõi của nhân nghĩa la yên dân, trừ bạo. mục đích cuối cùng của nhân nghĩa là yên dân , là làm cho dân được yên ổn, được an hưởng thái bình, hạnh phúc. muốn yên dân thì trước hết phải trừ bạo, phải trừ diệt mọi thế lực bạo tàn làm hại đến dân. cánh đặt vấn đệ như vậy thật khéo kéo va cao cường. đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, giặc minh nhân danh là đạo quân nhân nghĩa của thiên triều sang giúp nước nam vì" họ hồ chính sự phiền hà- để trong nước long dân oán hận", kì thực là sang xâm lược và gây ra bao tội ác khiến dân nam khốn khổ lầm than. nguyễn trãi mượn tư tưởng nhân nghĩa, mượn chính cái tư tưởng làm nên niềm tự hào của người trung hoa, để nói lên điều mà họ hok bjt hoặc cố tình hok bjt. nhân nghỉa của nho giáo chỉ được biểu hiện trong quan hệ giũa người với người, nhân nghĩa của nguyễn trãi mở rộng trong quan hệ giũa dân tộc với dân tộc. lý lẽ như vậy là mới mẻ và giàu sức thuyết phục. Sau khi nêu lên nguyên lý nhân nghĩa, nguyễn trãi khảng định chân lý về chủ quyền độc lập của dân tộc đại việt: như nước đại việt ta từ trước,song hào liệt đời nào cũng có
để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, trong lý lẽ của mình, nguyễn trãi đưa ra những yếu tố xác đáng: đất nước có quốc hiệu riêng (Đại việt), có nền văn hóa lâu đời, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử tồn tại lâu dài qua các triều đại, có nhân tài hào kiệt. những yếu tố này đã xác định 1 quan niệm mới mẻ, phong phú và hoàn chỉnh zề quốc gia dân tộc. đặc biệt,, việc nhấn mạnh yếu tố văn hiến càng có ý nghĩa khi trong 10 thế kỉ đô hộ, bọn phong kiến phương bắc luôn tìm cách phủ định văn hiến nước nam để từ đó phủ định cả tư cách độc lập của dân tộc đại việt. khi nói về lịch sử tồn tại của dân tộc, ng trãi đưa ra những dẫn chứng cụ thể: từ triều đại Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, ngườ mỗi bên xưng đế 1 phương, các triều đại xây dựng nền độc lập của đất nước được sánh ngang hàng với các triều dại phương bắc: mỗi bên xưng đế 1 phương. cách viết vừa sánh đôi, vừa đề cao đại việt bằng những từ ngữ có tính chất hiển nhiên tạo nên 1 giọng văn sang sảng niềm tự hào dân tộc. có thể xem đoạn văn là 1 bản tuyên ngôn độc lập.Sức mạnh của nguyên lý nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập dan tộc tiếp tục được Nguyễn Trãi khẳng định bằng những dẫn chứng cụ thể trong thực tế lịch sử nước nam
vậy nên hai chữ vậy nên chuyển đoạn văn rất khéo, diễn đạt logic của quan hệ nhân quả: kẻ nào xâm phạm chính nghĩa tất là quân phi nghĩa, phải chuốc lấy thất bại. các dẫn chứng được nêu theo trình tự lịch sử, từ lưu cung- vua nam hán đến triệu tiết- tướng nhà tống, cho đến toa đô và ô mã nhi- tướng nhà nguyên. cách nêu dẫn chứng cũng linh hạt và biến hoá, khi nhấn mạnh thất bại của giặc, khi ca ngợi chiến thắng oanh liệt của ta. lời khẳng định đanh thép ở cuói đoạn" việc xưa xem xét- chứng cớ còn ghi" một lần nưa nhấn mạnh chân lý nhân nghĩa , của chính nghĩa quốc gia dân tộc, đó là lẽ phải hok thể chối cãi được.Đoạn văn mở đầu bài bình ngô đại cáo là 1 đoạn văn sáng ngời chính nghĩa, được viết bởi 1 trí tuệ sắc sảo và 1 trái tim yêu nước thương dân. đoạn văn có ý nghĩa tiêu biểu cho áng thiên cổ hùng văn, thể hiện sức mạnh của văn chính luận nguyễn trãi: kết hợp giữa lý lẽ chặt chẽ và thực tế, tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ.
Bạn đọc tham khảo
 
T

thaonguyen25

đề 3:
nếu bài thwo thần nhà lý được oi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên thì cáo bình ngô của nguyễn trãi là được oi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2:
*cm lòng tự hào dân tộc:
-nguyễn trãi đã nêu lên quan điểm nhân nghĩa của chúng ta.đồng thời,ông cũng chỉ rà quyền bất khả xâm phạm ,quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân nước việt.
thể hiện rõ nhất trong câu thơ:''từ triệu...phương''
_>người đọc cảm nhận được tinh thần tự tôn dân tộc trong ông rất mãnh liệt.
-băng lời văn sảng khí thế tấn công ,ng trãi gợi lại tryền thống đánh giặc minh chính là để một lần nữa mọi người cùng nhau đoàn kết để tiếp tục bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ.
-câu:''tuy...cũng có''là sự tổng kết đứng đắn và đầy đủ nhất của dân tộc ta trước kẻ thù.
bởi vì,trước nhưng kẻ thù mạnh nhát như nhà hán,nhà nguyên,quân dân nhà trần đã phải ba lần đòn kết,sát cánh bên nhau để dành chiến thắng-tác giả cũng nêu ra nhiều dẫn chúng là sự thất bại của những tên tướng như triệu tiết.ô mã nhi...bằng những ngôn từ khác nhau như tạo cảm giác hả hê cho người dân đồng thời cũng là cach ông thể hiện lòng tự hào và sức mạnh quật cường dân tộc.
 
T

thaonguyen25

đề 1:Khát vọng tự do qua các tác phẩm: Khi con tu hú, Nhớ rừng, Ngắm trăng
Khát vọng tự do tác phẩm : Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu .Khi con Tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến ,người tù ( nhân vật trữ tình ) càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật hẹp ,càng thêm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng bên ngoài .Tên bài thơ đã gợi mở mạch cảm xúc của bài thơ .Tiếng chim Tu hú có giá trỊ hoán dụ ,liên tưởng báo hiệu một mùa hè rực rỡ của sự sống tưng bừng ,của trời cao lồng lộng tự do ,vì vậy tiếng chim đã tác động mạnh mẽ đến trái tim người tù .Tâm trạng người tù ngột ngạt vì sự chật chội ,tù túng ,nóng bức của phòng giam mùa hè .Uất hận vì sự vật thì tự do ,cả vật vô tri như cánh diều cũng được bay lượn tự do ,còn người chiến sĩ trẻ phải bị giam hãm ,bị biệt lập cô đơn " cháy ruột, mơ những ngày hoạt động ( quanh quẩn ) ,tất cả tâm trạng ấy dẫn đến ước muốn đập tan phòng của người tù .Tiếng chim kêu mở ra một mùa hè đầy sức sống ,đầy ắp sự tự do

Hơn thế nữa qua bài "Ngắm trăng "của Hồ Chí Minh toát lên vẻ đẹp trong tâm hồn của Bác .Một tinh thần kì diệu .Bài thơ giúp ta có cái nhìn từ hai phía .Phía này là nhà tù đen tối ,là hiện thực tàn bạo ,còn ngoài kia là trăng thơ mộng ,là thế giới của cái đẹp ,bầu trời tự do .Là lãng mạn say người .Ở giữa là song sắt nhà tù trở nên bất lực ,vô nghĩa trước những tâm hồn tri âm ,tri kỉ tìm đến với nhau .Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc mạnh mẽ vừa thể hiện tinh thần "thép "một phong thái ung dung ,vượt lên mọi hoàn cảnh bất chấp mọi hiểm nguy .


Qua hai tác phẩm hoàn cảnh mỗi khác nhưng tất cả đều nói lên sự tự do của con người Việt Nam mà không thể có cái gì có thể che đậy ,che kín được .
(nguồn:hocban)
 
T

thaonguyen25

đề2:
Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV là lịch sử chống quân xâm lược phương Bắc. Đó là lịch sử của 2 lần chiến thắng quân Tống, 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông hùng mạnh và 10 năm gian khổ chống quân Minh ... mà những chiến công hiển hách Bạch Đằng, Như Nguyệt, Chi Lăng ... vẫn còn vang dội đến tận ngày nay. Chính vì vậy, văn học thời kì đó đã phản ánh khá rõ nét tư tưởng yêu nước cùng lòng tự hào sâu sắc của dân tộc ta, nhất là qua hai văn bản Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ.

Trước hết, trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý nguyện muốn dời đô từ Hoa Lư về Đại La để đóng đô ở nơi “trung tâm trời đất,mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, để “trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng dân”. Như vậy, tư tưởng yêu nước đã được thể hiện ở việc gắn liền sự bền vững của một triều đại với ý nguyện của muôn dân. Khi nhìn lại các triều đại trước, ông đã rất đau xót cho số vận quá ngắn ngủi, để cho “trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”. Từ đó ta thấy rằng, xây dựng đất nước là đem lại hạnh phúc, thái bình cho dân. Xưa nay, thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của một đất nước . Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc. Thủ đô có ý nghĩa rất lớn . Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có các cuộc dời đô như thế . Mỗi lần dời là một thử thách của cả dân tộc. Đó phải là quyết định của người có đầu óc ưu tú nhất thời đại . Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, Lý Công Uẩn đã chỉ ra lợi thế về lịch sử, địa lý, hình thế núi sông, về sự thuận tiện trong giao lưu văn hóa và phát triển mọi mặt của thành Đại La, nhưng ông cũng không quên chỉ ra những thuận tiện cho nhân dân. Đặc biệt, ông khẳng định “đây quả thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước,cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Những lời lẽ ấy tuy giản dị nhưng lại thấm đẫm niềm tự hào khi nói về đất nước, thể hiện một khao khát mãnh liệt đó là thống nhất giang sơn về một mối. Trong lời khẳng định ấy, ta còn đọc được khí phách của một dân tộc: Đại La sẽ là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Giá trị chủ yếu của bài là tư tưởng yêu nước. Tiếng nói của tác giả là tiếng nói của nhân dân, của thời đại và khát vọng về một đất nước độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh .

Tiếp theo triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lí Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời đại nhà Trần với đầy những chiến công oanh liệt. Những người lãnh đạo thời kì này đều ghi tên mình vào sử sách. Trần Quốc Tuấn, tác giả “Hịch tướng sĩ” là một ví dụ . Đọc “Hịch Tướng Sĩ” -một áng thiên cổ hùng văn, ta cứ ngỡ như được nghe tiếng nói của cha ông , của non nước . Nó nồng nàn một tinh thần yêu nước ,nó biểu hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc , một ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù không chỉ là của riêng Trần Quốc Tuấn mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc. Trước tai hoạ đang đến gần: quân Mông - Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ hai với quy mô chưa từng thấy hòng không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50 vạn quân , Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ một lòng , chuẩn bị đương đầu với cuộc chiến sống còn . Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm , những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã làm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc ở các tướng sĩ, chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước, chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc, và những việc cần làm để chống giặc. Ông đã tự bày tỏ lòng mình, lòng căm giận như trào ra đầu ngọn bút, thống thiết và sâu lắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau của Trần Quốc Tuấn chính là nỗi đau của dân tộc khi độc lập tự do của đất nước bị xâm phạm, là tinh thần của một thời đại “sát thát”, lòng yêu nước của tác giả cũng là của cả dân tộc Đại Việt anh hùng. Cùng với sự phê phán nghiêm khắc thái độ và hành động sai trái của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ bảo ân cần những việc cần làm, đó là đề cao cảnh giác, “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên”. Đó là xác định duy nhất một con đường là tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, mang lại tự do cho nhân dân.

Qua ngôn ngữ thể hiện trong hai văn bản trên, tư tưởng yêu nước đã được phản ánh rất rõ nét:

- Yêu nước, trước hết cần khẳng định nước ta là một dân tộc, quốc gia văn hiến, có đầy đủ các quyền, ngang hàng với quốc gia dân tộc khác, đặc biệt là "Bắc quốc".

- Cơ sở tư tưởng yêu nước thể hiện qua việc tố cáo tội ác dã man của quân xâm lược để nung nấu ý chí căm thù giặc, đồng thời tô đậm những chiến công mà tổ tiên đã giành được trong lịch sử để không ngừng nâng cao ý thức tự hào dân tộc.

- Yêu nước đi đôi với xả thân cứu nước kiên quyết giành và giữ vững chủ quyền dân tộc. Đây là nguyên tắc đạo đức trong lối sống của người Đại Việt.

- Yêu nước là tôn trong sự sống (hiếu sinh) của mình cũng như của người khác, luôn thể hiện tính bao dung của người Việt. Từ đó mục tiêu của cuộc chiến đấu là giành được độc lập cho dân tộc, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho muôn dân.

- Yêu nước còn là yêu dân (thân dân), tức là quan tâm đến đời sống nhân dân, tạo điều kiện giúp họ sống khá hơn. Đây cũng là kế sách trong trị vì, quản lý đất nước.

Nhờ hình thành nền văn học phong phú, mang đậm tính chất dân gian và đặc biệt là nhờ sự hình thành nền văn học yêu nước, mà nổi lên là những áng thiên cổ hùng văn (như đã nêu ở trên) nên những giá trị văn hóa nói chung và giá trị tinh thần thời kỳ Đại Việt nói riêng đã được thể hiện và lưu truyền. Đây chính là sức mạnh của lịch sử dân tộc Việt Nam, là sự tự hào, là sự tiếp ứng sức mạnh cho các thế hệ. Ngày nay, chính các giá trị tinh thần ấy phải được biến thành xung lực mạnh mẽ, góp phần xây dựng đất nước.
(nguồn:hocban)
 
C

cherrynguyen_298

Nhà văn, nhà thơ khi cầm bút sáng tác là gửi gắm vào tác phẩm tâm tư, tình cảm của mình. Vì thế khi đọc tác phẩm văn học ta thấy hiện lên chân dung tâm hồn người viết. Mỗi tác phẩm là một thế giới tâm hồn, tình cảm riêng. Nhưng đọc Khi con tu hú (Tố Hữu) và Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) ta cùng bắt gặp một niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt của con người.

với bài thơ Khi con tu hú(Tố Hữu) khát vọng tự do được bày tỏ một cách trực tiếp với ý chí bất khuất: Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do!


Giữa chốn ngục tù của thực dân, người chiến sĩ cộng sản bỗng bắt gặp tiếng chim tu hú gọi bầy. Theo tiếng chim là cả một không gian hè với tiếng ve ngân trong vườn, với sân đầy bắp vàng, với bầu trời xanh cao rộng. Đặc biệt là hình ảnh đôi con diều sáo lộn nhào từng không – thật tự do, thật thoải mái với khát vọng tung hoành. Nó đối lập hoàn toàn với cảnh tù ngục. Vì vậy mà người chiến sĩ uất hận, sôi sục:

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu


Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội, ngột ngạt để trở về cuộc sống tự do. Mùa hè đến với bao âm thanh dậy trong lòng, thôi thúc, giục giã người chiến sĩ cách mạng không cam chịu cảnh tù đày mà hãy đập tan phòng xà lim chật chội. Tiếng chim tu hú vừa gợi nhớ vừa thúc giục đến với tự do. Vì thế Khi con tu hú không chỉ tái hiện cảnh tù đày mà còn là bày tỏ lòng yêu đời, khát vọng tự do, muốn tung phá, giải phóng của nhà thơ.

- Đến với Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) ta bất chợt chùng lòng bởi vẻ đẹp tâm hồn chiến sĩ thi sĩ. Cũng ở trong cảnh tù ngục mà ngục tù không giam được tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của Người. Đối lập với cảnh tù u ám là một đêm trăng đẹp:

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ


Rung động mãnh liệt trước cảnh trăng đẹp, người chiến sĩ cách mạng ung dung thưởng ngoạn trăng:

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ


Kì diệu thay là sức mạnh tinh thần! Mặc nhà tù đen tối, mặn hiện thức bạo tàn, Bác vẫn đến với vầng trăng thơ mộng bởi đó là thế giới tự do, là vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời.Phép đối và nhân hoá được sử dụng rất đắc dụng ở đây.Người tù hướng ra ngoài cửa sổ say ngắm vầng trăng sáng, vầng trăng vượt qua song sắt, qua khe cửa hẹp của nhà tù để ngắm nhà thơ.Nhà tù trở nên vô nghĩa lý trước những tri âm, tri kỷ. Đến với trăng là Bác đến với cái đẹp, với tự do. Vì thế mà cả bài thơ không có chữ tự do mà lại toát lên một tâm hồn rất tự do, luôn luôn làm chủ được mọi hoàn cảnh của Bác. Và thật chính xác khi khẳng định Ngắm trăng là một cuộc vượt ngục về tinh thần.


2.2. Có thể thấy rằng dù bằng cách này hay cách khác mỗi tác phẩm đều thể hiện niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt. ẩn sâu bên trong nó là gì nếu không phải là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn trong Nhớ rừng đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của những người dân mất nước thuở ấy. Còn trong bài thơ Khi con tu hú là sự bày tỏ lòng yêu cuộc sống qua niềm khao khát tự do cháy bỏng bằng những vần thơ lục bát giản dị, thiết tha của Tố Hữu. Với Tố Hữu được tự do là được cống hiến, được chiến đấu vì lý tưởng cao quý. Và Ngắm trăng- bài thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc là dẫn chứng thuyết phục nhất cho thấy tinh thần thép- phong thái ung dung lạc quan của Bác Hồ trước kẻ thù. Cội nguồn của phong thái đó là niềm tin vào tương lai cách mạng của Bác.


3. Kết bài:


Thật vậy, mỗi bài thơ là một vẻ đẹp của tâm hồn người viết. Dù nội dung và hình thức có khác nhau thì tựu trung lại vẫn là bày tỏ khát vọng của mình: khát vọng tự do. Nó là nỗi niềm khôn nguôi trong lòng người dân Việt Nam khi mất nước. Nó đã tạo nên sức mạnh để non sông Việt Nam thu về một mối, đất nước sạch bóng quân thù.
 
Top Bottom