Văn nghị luận chứng minh

M

mia_kul

đề 2:
nhân ái là nhận biết rằng mọi người đều thực sự thuộc về mình. Lòng nhân ái khai sinh, không phải từ nỗi băn khoăn người khác nghĩ gì về mình, mà từ nhận thức đơn giản rằng, lòng nhân ái tự nó là quà tặng cho mọi người, và nguồn suối ngọt ngào đó ở nơi ta. “quà tặng phải đưa vào tận con tim chứ không phải chỉ trên đôi tay” (paul claudel). Sống với mọi người có nghĩa là trao tặng lòng nhân ái của mình cho họ. Nhờ vậy, đi tới đâu ta cũng dễ cảm thấy tình yêu đang chờ đợi mình, đang chào đón mình. Lòng nhân ái của ta là một khung trời bao la cho phép mình và người khác được sống tự do để thể hiện chính mình mà không phải quá câu nệ, dè dặt hay sợ bị đánh giá. Khi lòng nhân ái thật sự được mở rộng thì ta có thể dung chứa được mọi lối sống, mọi kiểu cách, mọi quan điểm, mọi phê bình ... Của người khác mà không cảm thấy dị ứng, bực bội hay khó chịu. Trái lại ta còn có khả năng hướng mình và người khác tới một đồng cảm gần gũi hơn, thâm sâu hơn, cho dù bên ngoài có những khác biệt về cách thức thể hiện. Chính lòng nhân ái cho ta ý thức và cảm nhận trong đức tin rằng, chính chúa vẫn đang tác tạo và làm mới lại mọi sự nơi mọi người.

Với những người có lòng từ ái bao dung thì cả vũ trụ này là quê nhà yêu dấu, và tất cả mọi người dù là những kẻ bệ rạc nhất cũng đều là những người anh em đáng được hưởng tình yêu thương. Không có gì có thể ngăn cản được lòng nhân ái đích thực để làm nên một cuộc sống an vui cho con người. Kiêu căng, ích kỷ, oán ghét, hận thù... Cũng sẽ tiêu tan trước sức mạnh của lòng nhân ái.

Con người là cái mình có, thêm cái mình trở nên, cộng với những gì mình sẽ làm. Cái sẽ làm chính là thể hiện lòng nhân ái: điều mà mỗi người đã có tự thâm tâm, để làm cho con người trở nên người hơn. Thể hiện lòng nhân ái là ơn gọi đã được định hướng do công trình sáng tạo và cứu chuộc của thiên chúa. Con người sẽ không lớn nổi thành người và càng không trở nên con người của thiên chúa nếu từ chối phát triển ơn gọi này mỗi ngày cao độ hơn.

Nhìn ngắm chúa giêsu thể hiện lòng nhân ái

khi đọc và suy gẫm tin mừng, chúng ta dễ cảm nhận sâu xa lòng nhân ái của đức giêsu: Ngài bồng ẳm các em bé vào lòng, chúc lành cho chúng, và ngài nhắc chúng ta nhớ rằng nước thiên chúa thuộc về những người giống như chúng (mc 10, 14). Ngài sống tình nghĩa thâm giao với các bạn hữu của mình, cảm thương bạn mình đến mức độ sa nước mắt (ga 11, 35). Chính ngài từng nếm cảm nỗi đói khát, cô đơn và buồn sầu. Ngài là thiên chúa và là con người trọn vẹn, nhưng thần tính của ngài không hề làm giảm sút nhân tính chút nào.

Lòng nhân ái của đức giêsu được nhìn thấy rõ nhất nơi tấm lòng trắc ẩn của ngài. “trắc ẩn” không chỉ là cảm thương, mà còn là cảm nếm nỗi đau khổ của người khác; là đau cái nỗi đau của họ, khổ cái nỗi khổ của họ. Cũng như nhà thần bí thời tung cổ đã nói: “thiên chúa đã đưa lưng để hứng trọn lấy những đòn roi đau buốt quất vào chúng ta”.

đức giêsu đã cảm nhận cơn đói mệt lã của đám đông đi theo ngài trong hoang địa (mc 6, 35). Trái tim trắc ẩn của ngài đã hoàn toàn đồng cảm và mang lấy nỗi buồn đau thấu tận con tim của người quả phụ đang khóc thương vì mất đưa con trai duy nhất của mình (lc 7, 11). Người góa phụ này đã không xin chúa giêsu làm một phép lạ, nhưng chính ngài đã quyết định làm thế. Phải chăng ngài nhìn thấy trước nơi người góa phụ ấy hình ảnh của chính mẹ yêu dấu của ngài sẽ đón nhận vào vòng tay mình tấm thi thể tan nát của chính ngài sau này? Ngài cảm nhận được lòng thống hối của người đàn bà tội lỗi đang sa nước mắt rửa chân ngài và lấy tóc mà lau chân ngài: Dấu chứng của một trái tim chứa chan tình yêu mến. Lòng trắc ẩn đã thúc đẩy ngài đi đến gặp gỡ và ngay cả động chạm đến những người mà xã hội liệt vào hạng ô uế không được phép động chạm đến (mc 1, 14).

Lòng nhân ái của chúa giêsu đã làm cho ngài có thể đi vào trong mối quan hệ với từng người và với tất cả: Những người đau ốm và những người khốn khổ, những người nghèo cũng như những kẻ giàu có, những người quyền thế cũng như những người bị áp bức, những người tội lỗi cũng như những người lành thánh. Mặc dù ngài tiếp xúc với đám đông quần chúng, ngài vẫn không bao giờ quên các cá nhân và nhu cẩu riêng tư của họ, nên ngài đã dừng chân lại với anh chàng ăn xin bartimê (mc 10, 46). Cả một đám đông chen lấn xô đẩy ngài, nhưng ngài vẫn cảm nhận được đức tin của người phụ nữ đang cố kín đáo động chạm đến mép áo ngài để được chữa lành chứng bệnh băng huyết của chị ( (mc 5, 30). Ngài đã cảm kích bởi lòng quảng đại của bà góa nghèo dâng cúng hai đồng bạc vào hòm tiền của đền thờ, tức trọn số tiền mà bà đang có (lc 21, 2). Cuối cùng, lòng nhân ái vô độ của đức giêsu đã kết hợp muôn người trong hy tế thập giá của ngài để giao hòa và liên kết tất cả trong một thần khí (ep 2, 14-18), để ban cho họ ơn tái sinh (rm 7, 4), và sự sống thần linh (ep 2, 4-6).

Lòng nhân ái trong đời sống kitô hữu

là những kitô hữu, chúng ta không thể vô cảm, vô can, hay thờ ơ lãnh đạm đối với bao nỗi đau buồn thất vọng và những nổ lực đấu tranh của bao con người xung quanh chúng ta . Niềm vui và nỗi khổ của họ phải có một âm vang trong cõi lòng chúng ta. để nên giống với đức kitô, chúng ta cần phải làm triển nở sâu rộng tấm lòng nhân ái và trắc ẩn như ngài, để biết cảm xúc với người ta, vì người ta, và trong người ta, nhất là những người đau khổ trong thân xác và trong tâm hồn. để nên giống với đức kitô, giáo hội khuyên chúng ta phải biết cảm nhận “những vui mừng và hy vọng, những ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là những người nghèo và những người đau khổ” (gs 1).

đặc biệt, chúng ta được kêu gọi nên giống đức kitô trong tấm lòng và cách thái của người samaritanô nhân hậu, bởi vì “dụ ngôn người samaritanô nhân hậu thuộc về tin mừng khổ lụy. Quả thật, dụ ngôn này vạch cho chúng ta thấy mối tương quan giữa chúng ta và những anh chị em đau khổ xung quanh đời mình phải như thế nào”[1].

Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc được trong khi có biết bao người đang đau khổ. Chỉ có ai quên hạnh phúc của mình để tìm hạnh phúc cho kẻ khác, mới có thể gặp lại hạnh phúc của mình tràn đầy. Hạnh phúc tiềm tàng trong ước mắt của người mà ta đã lau khô, trong nụ cười của người mà ta đã làm tươi nở, trong những kẻ mà ta đã ủi an khích lệ... “chỉ cuộc đời sống cho người khác mới là cuộc đời đáng sống” (einstein). Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho. Trong khi đó, sống tình thương là qui luật tối thượng, là sứ mạng tin mừng của kitô hữu. Sứ mạng đó là trở nên gần gũi thân thiết với những người “lân cận” để thấu hiểu nỗi niềm và biết cách để sống với họ và cho họ.

Chúng ta không giống với đức kitô ở chỗ mình không có quyền năng để chữa trị các anh chị em đau yếu, tật nguyền. Có thể chúng ta không xóa được nỗi thống khổ của người ta, nhưng chính sự hiện diện của chúng ta trong nỗi thống khổ của họ sẽ đem lại cho họ niềm hy vọng và sự chữa trị. Chúng ta không thể bù đắp cho họ hết những thiếu thốn và mất mát do những bất công xã hội gây ra, nhưng sự chia sẻ của chúng ta sẽ làm vơi đi những tủi nhục và cay đắng trong đời họ. Chúng ta không thể tạo cho họ một tâm hồn tươi mới, nhưng sự đồng hành gần gũi với họ trong cuộc sống sẽ làm cho họ phai nhạt dần những mặc cảm, u uất, có khi là những căm phẩn, hận thù. Khi sống như vậy, chính chúng ta cũng nhận được sự nâng đỡ lớn lao từ nơi họ, đồng thời tìm thấy niềm vui tinh thần và nguồn nghị lực dâng cao từ chính lòng nhân ái của mình.

Suốt đời chúng ta phải theo đuổi cái cốt yếu là đem lòng nhân hậu của thiên chúa vào các tương quan gia đình và láng giềng, phục vụ cho công lý nơi đời sống xã hội và nghề nghiệp. Mỗi người chúng ta là nhịp đập của trái tim chúa giêsu, nên chúng ta phải sống thân thiết làm một với ngài, và cũng để từ đó phát xuất chính lòng nhân ái của ngài, chứ không phải chỉ là lòng nhân ái thuần túy của trái tim nhân loại.

Lòng nhân ái là thập giá trổ hoa

cánh hoa của lòng nhân ái chỉ nở ra trên cậy thập giá, là kết tinh của những chuỗi ngày cắt tỉa có khi rất trơ trọi và thê lương, như chết đi nếp sống cũ để lối sống mới có thể thành hình. Thể hiện lòng nhân ái là phải chấp nhận đau thương, chấp nhận từ bỏ mình để có thể trao ban chính mình. Mẹ têrêsa calcutta đã định nghĩa: “kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Trao ban không có nghĩa là mất đi, nhưng đó là phương thức tốt nhất để giữ lại những gì mình đã cho đi, để trở nên chính mình hơn. Những gì mình thực sự sở hữu chính là những cái mình đã cho đi, mà sở hữu lớn lao nhất là chính sự sống mình. Chính chúa giêsu đã khẳng định: “ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì thầy, thì sẽ tìm thấy được” (mt 10, 39).

Như vậy, tiến bước mở rộng lòng nhân ái cũng chính là tiến bước trên con đường thập giá để hiến thân, cùng với chúa giêsu để cứu độ. đó là niềm vinh hạnh của mỗi người chúng ta được dự phần với chúa để mang lại bình an và hạnh phúc cho anh em mình, bởi vì chỉ có hy sinh mới đánh đổi được tình yêu; chỉ có đau thương mới mang lại hạnh phúc.



Lạy chúa giêsu, tha nhân cũng chính là bản thân con trong liên hệ thể chất lẫn tinh thần, trong tâm hồn cũng như nơi thân xác, và cùng được cứu chuộc bởi giá máu của chúa. Chính chúa đã thông phần sự sống cho chúng con để chúng con cũng biết thông chia sự sống cho nhau bằng tấm lòng nhân ái bao la như chính chúa. Con chỉ kiện toàn được bản thân mình trong mối liên đới với thân phận của mọi người, từ những trắc trở lo âu hay những vui mừng và hy vọng của họ; từ những thất bại chán chường hay những thành công phấn khởi của họ; từ những sa lầy đau thương tội lỗi hay những nổ lực vươn lên rất can đảm và lành thánh của họ ... Nhìn lại, lòng nhân ái của mỗi người chúng con còn bị truy cản bởi quá nhiều chướng ngại: Tham, sân, si... Của những chấp nhất và thiển cận, của những nông nỗi và nhẹ dạ dễ bị lung lạc bởi dư luận, thành kiến tạo nên ác cảm... Của cả những tranh giành ảnh hưởng và danh giá bề ngoài. Xin cho mỗi người chúng con thật sự là nhịp đập của trái tim chúa, biết cùng rung cảm chân tình và sâu xa về từng hiện trạng trong đời sống của nhau. Amen.
 
M

minh_minh1996

Đề1: Chứng minh học tập là việc cần thiết
Đề2: Chủ đề lòng nhân ái
Đề3: Chủ đề biết ơn
bài làm
bạn có thể tham khảo ở đây !
câu 2
http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-66694.html
câu 3
http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-93673.html

đề 2:của bạn silvery21

Nhân ái là nhận biết rằng mọi người đều thực sự thuộc về mình. Lòng nhân ái khai sinh, không phải từ nỗi băn khoăn người khác nghĩ gì về mình, mà từ nhận thức đơn giản rằng, lòng nhân ái tự nó là quà tặng cho mọi người, và nguồn suối ngọt ngào đó ở nơi ta. “Quà tặng phải đưa vào tận con tim chứ không phải chỉ trên đôi tay” (Paul Claudel). Sống với mọi người có nghĩa là trao tặng lòng nhân ái của mình cho họ. Nhờ vậy, đi tới đâu ta cũng dễ cảm thấy tình yêu đang chờ đợi mình, đang chào đón mình. Lòng nhân ái của ta là một khung trời bao la cho phép mình và người khác được sống tự do để thể hiện chính mình mà không phải quá câu nệ, dè dặt hay sợ bị đánh giá. Khi lòng nhân ái thật sự được mở rộng thì ta có thể dung chứa được mọi lối sống, mọi kiểu cách, mọi quan điểm, mọi phê bình ... của người khác mà không cảm thấy dị ứng, bực bội hay khó chịu. Trái lại ta còn có khả năng hướng mình và người khác tới một đồng cảm gần gũi hơn, thâm sâu hơn, cho dù bên ngoài có những khác biệt về cách thức thể hiện. Chính lòng nhân ái cho ta ý thức và cảm nhận trong đức tin rằng, chính Chúa vẫn đang tác tạo và làm mới lại mọi sự nơi mọi người.

Với những người có lòng từ ái bao dung thì cả vũ trụ này là quê nhà yêu dấu, và tất cả mọi người dù là những kẻ bệ rạc nhất cũng đều là những người anh em đáng được hưởng tình yêu thương. Không có gì có thể ngăn cản được lòng nhân ái đích thực để làm nên một cuộc sống an vui cho con người. Kiêu căng, ích kỷ, oán ghét, hận thù... cũng sẽ tiêu tan trước sức mạnh của lòng nhân ái.

Con người là cái mình có, thêm cái mình trở nên, cộng với những gì mình sẽ làm. Cái sẽ làm chính là thể hiện lòng nhân ái: điều mà mỗi người đã có tự thâm tâm, để làm cho con người trở nên người hơn. Thể hiện lòng nhân ái là ơn gọi đã được định hướng do công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Con người sẽ không lớn nổi thành người và càng không trở nên con người của Thiên Chúa nếu từ chối phát triển ơn gọi này mỗi ngày cao độ hơn.

Nhìn ngắm Chúa Giêsu thể hiện lòng nhân ái

Khi đọc và suy gẫm Tin Mừng, chúng ta dễ cảm nhận sâu xa lòng nhân ái của Đức Giêsu: Ngài bồng ẳm các em bé vào lòng, chúc lành cho chúng, và Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như chúng (Mc 10, 14). Ngài sống tình nghĩa thâm giao với các bạn hữu của mình, cảm thương bạn mình đến mức độ sa nước mắt (Ga 11, 35). Chính Ngài từng nếm cảm nỗi đói khát, cô đơn và buồn sầu. Ngài là Thiên Chúa và là con người trọn vẹn, nhưng thần tính của Ngài không hề làm giảm sút nhân tính chút nào.

Lòng nhân ái của Đức Giêsu được nhìn thấy rõ nhất nơi tấm lòng trắc ẩn của Ngài. “Trắc ẩn” không chỉ là cảm thương, mà còn là cảm nếm nỗi đau khổ của người khác; là đau cái nỗi đau của họ, khổ cái nỗi khổ của họ. Cũng như nhà thần bí thời Tung Cổ đã nói: “Thiên Chúa đã đưa lưng để hứng trọn lấy những đòn roi đau buốt quất vào chúng ta”.

Đức Giêsu đã cảm nhận cơn đói mệt lã của đám đông đi theo Ngài trong hoang địa (Mc 6, 35). Trái tim trắc ẩn của Ngài đã hoàn toàn đồng cảm và mang lấy nỗi buồn đau thấu tận con tim của người quả phụ đang khóc thương vì mất đưa con trai duy nhất của mình (Lc 7, 11). Người góa phụ này đã không xin Chúa Giêsu làm một phép lạ, nhưng chính Ngài đã quyết định làm thế. Phải chăng Ngài nhìn thấy trước nơi người góa phụ ấy hình ảnh của chính Mẹ yêu dấu của Ngài sẽ đón nhận vào vòng tay mình tấm thi thể tan nát của chính Ngài sau này? Ngài cảm nhận được lòng thống hối của người đàn bà tội lỗi đang sa nước mắt rửa chân Ngài và lấy tóc mà lau chân Ngài: dấu chứng của một trái tim chứa chan tình yêu mến. Lòng trắc ẩn đã thúc đẩy Ngài đi đến gặp gỡ và ngay cả động chạm đến những người mà xã hội liệt vào hạng ô uế không được phép động chạm đến (Mc 1, 14).

Lòng nhân ái của Chúa Giêsu đã làm cho Ngài có thể đi vào trong mối quan hệ với từng người và với tất cả: những người đau ốm và những người khốn khổ, những người nghèo cũng như những kẻ giàu có, những người quyền thế cũng như những người bị áp bức, những người tội lỗi cũng như những người lành thánh. Mặc dù Ngài tiếp xúc với đám đông quần chúng, Ngài vẫn không bao giờ quên các cá nhân và nhu cẩu riêng tư của họ, nên Ngài đã dừng chân lại với anh chàng ăn xin Bartimê (Mc 10, 46). Cả một đám đông chen lấn xô đẩy Ngài, nhưng Ngài vẫn cảm nhận được đức tin của người phụ nữ đang cố kín đáo động chạm đến mép áo Ngài để được chữa lành chứng bệnh băng huyết của chị ( (Mc 5, 30). Ngài đã cảm kích bởi lòng quảng đại của bà góa nghèo dâng cúng hai đồng bạc vào hòm tiền của Đền Thờ, tức trọn số tiền mà bà đang có (Lc 21, 2). Cuối cùng, lòng nhân ái vô độ của Đức Giêsu đã kết hợp muôn người trong hy tế thập giá của Ngài để giao hòa và liên kết tất cả trong một Thần Khí (Ep 2, 14-18), để ban cho họ ơn tái sinh (Rm 7, 4), và sự sống thần linh (Ep 2, 4-6).

Lòng nhân ái trong đời sống Kitô hữu

Là những Kitô hữu, chúng ta không thể vô cảm, vô can, hay thờ ơ lãnh đạm đối với bao nỗi đau buồn thất vọng và những nổ lực đấu tranh của bao con người xung quanh chúng ta . Niềm vui và nỗi khổ của họ phải có một âm vang trong cõi lòng chúng ta. Để nên giống với Đức Kitô, chúng ta cần phải làm triển nở sâu rộng tấm lòng nhân ái và trắc ẩn như Ngài, để biết cảm xúc với người ta, vì người ta, và trong người ta, nhất là những người đau khổ trong thân xác và trong tâm hồn. Để nên giống với Đức Kitô, Giáo hội khuyên chúng ta phải biết cảm nhận “những vui mừng và hy vọng, những ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là những người nghèo và những người đau khổ” (GS 1).

Đặc biệt, chúng ta được kêu gọi nên giống Đức Kitô trong tấm lòng và cách thái của Người Samaritanô Nhân Hậu, bởi vì “dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu thuộc về Tin Mừng khổ lụy. Quả thật, dụ ngôn này vạch cho chúng ta thấy mối tương quan giữa chúng ta và những anh chị em đau khổ xung quanh đời mình phải như thế nào”[1].

Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc được trong khi có biết bao người đang đau khổ. Chỉ có ai quên hạnh phúc của mình để tìm hạnh phúc cho kẻ khác, mới có thể gặp lại hạnh phúc của mình tràn đầy. Hạnh phúc tiềm tàng trong ước mắt của người mà ta đã lau khô, trong nụ cười của người mà ta đã làm tươi nở, trong những kẻ mà ta đã ủi an khích lệ... “Chỉ cuộc đời sống cho người khác mới là cuộc đời đáng sống” (Einstein). Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho. Trong khi đó, sống tình thương là qui luật tối thượng, là sứ mạng Tin Mừng của Kitô hữu. Sứ mạng đó là trở nên gần gũi thân thiết với những người “lân cận” để thấu hiểu nỗi niềm và biết cách để sống với họ và cho họ.

Chúng ta không giống với Đức Kitô ở chỗ mình không có quyền năng để chữa trị các anh chị em đau yếu, tật nguyền. Có thể chúng ta không xóa được nỗi thống khổ của người ta, nhưng chính sự hiện diện của chúng ta trong nỗi thống khổ của họ sẽ đem lại cho họ niềm hy vọng và sự chữa trị. Chúng ta không thể bù đắp cho họ hết những thiếu thốn và mất mát do những bất công xã hội gây ra, nhưng sự chia sẻ của chúng ta sẽ làm vơi đi những tủi nhục và cay đắng trong đời họ. Chúng ta không thể tạo cho họ một tâm hồn tươi mới, nhưng sự đồng hành gần gũi với họ trong cuộc sống sẽ làm cho họ phai nhạt dần những mặc cảm, u uất, có khi là những căm phẩn, hận thù. Khi sống như vậy, chính chúng ta cũng nhận được sự nâng đỡ lớn lao từ nơi họ, đồng thời tìm thấy niềm vui tinh thần và nguồn nghị lực dâng cao từ chính lòng nhân ái của mình.

Suốt đời chúng ta phải theo đuổi cái cốt yếu là đem lòng nhân hậu của Thiên Chúa vào các tương quan gia đình và láng giềng, phục vụ cho công lý nơi đời sống xã hội và nghề nghiệp. Mỗi người chúng ta là nhịp đập của trái tim Chúa Giêsu, nên chúng ta phải sống thân thiết làm một với Ngài, và cũng để từ đó phát xuất chính lòng nhân ái của Ngài, chứ không phải chỉ là lòng nhân ái thuần túy của trái tim nhân loại.

Lòng nhân ái là thập giá trổ hoa

Cánh hoa của lòng nhân ái chỉ nở ra trên cậy thập giá, là kết tinh của những chuỗi ngày cắt tỉa có khi rất trơ trọi và thê lương, như chết đi nếp sống cũ để lối sống mới có thể thành hình. Thể hiện lòng nhân ái là phải chấp nhận đau thương, chấp nhận từ bỏ mình để có thể trao ban chính mình. Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Trao ban không có nghĩa là mất đi, nhưng đó là phương thức tốt nhất để giữ lại những gì mình đã cho đi, để trở nên chính mình hơn. Những gì mình thực sự sở hữu chính là những cái mình đã cho đi, mà sở hữu lớn lao nhất là chính sự sống mình. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 39).

Như vậy, tiến bước mở rộng lòng nhân ái cũng chính là tiến bước trên con đường thập giá để hiến thân, cùng với Chúa Giêsu để cứu độ. Đó là niềm vinh hạnh của mỗi người chúng ta được dự phần với Chúa để mang lại bình an và hạnh phúc cho anh em mình, bởi vì chỉ có hy sinh mới đánh đổi được tình yêu; chỉ có đau thương mới mang lại hạnh phúc.



Lạy Chúa Giêsu, tha nhân cũng chính là bản thân con trong liên hệ thể chất lẫn tinh thần, trong tâm hồn cũng như nơi thân xác, và cùng được cứu chuộc bởi giá máu của Chúa. Chính Chúa đã thông phần sự sống cho chúng con để chúng con cũng biết thông chia sự sống cho nhau bằng tấm lòng nhân ái bao la như chính Chúa. Con chỉ kiện toàn được bản thân mình trong mối liên đới với thân phận của mọi người, từ những trắc trở lo âu hay những vui mừng và hy vọng của họ; từ những thất bại chán chường hay những thành công phấn khởi của họ; từ những sa lầy đau thương tội lỗi hay những nổ lực vươn lên rất can đảm và lành thánh của họ ... Nhìn lại, lòng nhân ái của mỗi người chúng con còn bị truy cản bởi quá nhiều chướng ngại: tham, sân, si... của những chấp nhất và thiển cận, của những nông nỗi và nhẹ dạ dễ bị lung lạc bởi dư luận, thành kiến tạo nên ác cảm... của cả những tranh giành ảnh hưởng và danh giá bề ngoài. Xin cho mỗi người chúng con thật sự là nhịp đập của trái tim Chúa, biết cùng rung cảm chân tình và sâu xa về từng hiện trạng trong đời sống của nhau. Amen.
 
M

minh_minh1996

đề 3
Trong cuộc sống, đạo đức là một yếu tố rất quan trọng, nó thể hiện sự văn minh, lịch sự, nếp sống, tính cách, và phần nào có thể đánh giá được phẩm chất, giá trị bản thân con người. Và có rất nhiều mặt để đánh giá đạo đức, phẩm chất của con người. Một trong số đó là sự biết ơn, nhớ ghi công lao mà người khác đã giúp đỡ mình. Đó cũng là một chân lí thiết thức trong đời thường. Chính vì vậy ông cha ta có câu : “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ nguồn” .
Cả hai câu tục ngữ trên đều mang một triết lí nhân văn sâu sa. Đó là cần phải biết ơn những người đã mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chúng ta.
Câu đầu tiên mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” ý muốn nói, khi được hưởng thụ những trái ngọt, trái thơm, cần nhớ tới công sức, mồ hôi nước mắt của người đã làm ra nó. Điều đó được ẩn dụ nhằm khuyên răn thái độ của mỗi con người xử sự sao cho đúng, cho phải đối với những người đã giúp đỡ mình để không phải hổ thẹn với lương tâm. Hành động đó đã thể hiện một tư tưởng cao đẹp, một lối ứng xử đúng đắn. Lòng biết ơn đối với người khác đó chính là một truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ xưa tới nay. Đó cũng chính là biết sống ân nghĩa mặn mà, thuỷ chung sâu sắc giữa con người với con người. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng thụ hiện tại không phải tự dưng mà có. Đó chính là công sức của biết bao lớp người. Từ những bát cơm dẻo tinh trên tay cũng do bàn tay người nông dân làm ra, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi mà. Rồi đến tấm áo ta mặc, chiếc giày ta đi cũng đều bởi những bàn tay khéo léo của người thợ cùng với sự miệt mài, cần cù trong đó. Những di sản văn hoá nghệ thuật, những thành tựu độc đáo sáng tạo để lại cho con cháu. Còn nhiều, rất nhiều những công trình vĩ đại nữa mà thế hệ trước đã làm nên nhằm mục đích phục vụ thế hệ sau. Tất cả, tất cả cũng chỉ là những công sức lớn lao, sự tâm huyết của mỗi người dồn lại đã tạo nên một thành quả thật đáng khâm phục để ngày nay chúng ta cần biết ơn, phục hồi, tu dưỡng, phát triển những di sản đó. Những lòng biết ơn, kính trọng không phải chỉ là lời nói mà còn cần hành động để có thể thể hiện được hết ân nghĩa của ta. Đó chính là bài học thiết thực về đạo lí mà mỗi con người cần phải có.
Đến câu tục ngữ thứ hai “Uống nước nhớ nguồn”. Cũng giống câu tục ngữ thứ nhất. Câu tục ngữ này đều mang ý ẩn dụ dưới hình thức cụ thể, sinh động. Nước chính là thứ chúng ta hưởng thụ còn nguồn chính là người tạo ra cái để chúng ta hưởng thụ đó. Câu tục ngữ này chỉ vẻn vẹn có bốn chữ mà ý tứ sâu xa ẩn dưới cấu trúc mô hình điều kiện, hệ quả. Nói đến nước trong nguồn là nói đến sự mát mẻ, thanh tao. Và nguồn nước sẽ mãi không bao giờ vơi cạn. Chữ “nhớ” trong câu là một từ quan trọng, tâm điểm của câu tục ngữ. Ý nghĩa câu tục ngữ này thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Lòng nhớ ơn luôn mang một tình cảm cao đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Nó giáo dục chúng ta cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc cho chúng ta có những năm tháng sống vui sống khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của chúng ta, phần vì không hổ thẹn với những người ngã xuống giành lấy sự độc lập. Có ai hiểu được rằng, một sự biết ơn được thể hiện như một đoá hoa mai ửng hé trong nắng vàng, một lòng kính trọng bộc lộ như một ánh sao đêm sáng rọi trên trời cao. Đó là những cử chỉ cao đẹp, những hành động dù chỉ là nhỏ nhất cũng đều mang một tấm lòng cao thượng. Những người có nhân nghĩa là những người biết ơn đồng thời cũng biết giúp đỡ người khác mà không chút tính toan do dự. Chính những hành động đó đã khơi dậy tấm lòng của biết bao nhiêu con người , rồi thế giới này sẽ mãi là một thế giới giàu cảm xúc.
Tóm lại hai câu tục ngữ trên giúp ta hiểu được về đạo lí làm người. Lòng tôn kính, sự biết ơn không thể thiếu trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Chúng ta luôn phải trau dồi những phẩm chất cao quý đó, hãy biết rèn luyện, phấn đấu bằng những hành động nhỏ nhất vì nó không tự có trong mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn những người đã có công dẫn dắt ta trong cuộc sống nhất là đối với những người trực tiếp giúp đỡ chỉ bảo ta như cha mẹ, thầy cô. Bài học đó sẽ mãi là một kinh nghiệm sống ẩn chứa trong hai câu tục ngữ trên và nó có vai trò, tác dụng rất lớn đối với cuộc sống trên hành tinh này.
 
Top Bottom