văn nghị luận 9

T

tunkute123

Nghị luận về đoạn trích ấy là sao bạn? Có thể nói rõ ràng tí được không? Bạn nói vậy khó làm lắm. Thường thì nghị luận người ta cho một khía cạnh sau đó chúng ta mới có thể làm được chứ :-j
 
S

sam_biba

Đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 (tập 1) đã lược bỏ quang cảnh pháp đình, đoạn Thuý Kiều đền ơn vãi Giác Duyên và bà quản gia trong dinh họ Hoạn, chỉ giữ lại hai đoạn đền ơn Thúc Sinh và xử án Hoạn Thư (do khuôn khổ của một giờ dạy và đặc thù của đối tượng tiếp nhận). Dù vô tình hay hữu ý, các tác giả soạn sách đã làm nổi bật quan hệ tay ba: Thúc Sinh - Hoạn Thư - Thuý Kiều ở màn chót của nó, và chính tại đây, tính cách của từng nhân vật được hiện ra rõ ràng, sinh động hơn bao giờ hết. Mỗi câu chữ đều gợi nhớ đến quãng đời chìm nổi, đắng cay hoặc mong manh hạnh phúc đã qua của nàng Kiều, gợi đến những quan hệ quá khứ liên quan đến cả ba người.

Thật ra, người có đủ uy lực tuyệt đối để chủ tọa phiên tòa đúng ra phải là Từ Hải! Nhưng Từ vì quá tôn trọng nàng mà trao lại cái quyền đó, thành ra, dường như Kiều chưa được trang bị đầy đủ để ngồi ở vị trí quan tòa luận tội, và Từ Hải tuy "cùng ngồi" trên bục quan tòa mà hóa ra như thừa!

Vì thế cho nên, việc đền ơn cho Thúc Sinh không thể được coi là trọn vẹn tốt đẹp và việc trả oán không phải là không có mâu thuẫn, gây nên tranh cãi xưa nay.

Ta hãy xem Kiều đền ơn Thúc Sinh. Mở đầu đoạn: "Cho gươm mời đến Thúc lang". Kể cũng lạ ở cái nghi thức "cho gươm mời", dù là nghi thức thể hiện sự trang trọng ở nơi công đường, người được đưa đến để đáp đền ơn nghĩa, bất cứ ai sẽ không bao giờ ưa cái nghi thức ấy. Nhất là với Thúc Sinh, bản chất con người bạc nhược thế nào chắc Kiều đã quá hiểu. Chẳng trách gì mà anh ta nát cả thần hồn, bộ dạng thật thê thảm: "Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run". Nỗi sợ hãi từ phút đầu tới phút chót khiến cho chàng câm lặng, tuyệt nhiên không có bất kì một cử chỉ hoặc một câu cảm tạ nào!

Lời Kiều nói với Thúc Sinh gợi về quan hệ quá khứ giữa hai người: "Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non/ Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?/ Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng/ Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?/ Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân/ Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là"...

Âm điệu của những câu thơ ít có sự ngắt nhịp mau nghe êm đềm phù hợp với lời nói dịu dàng, thể hiện được phần nào chân tình của Kiều. Bởi công bằng mà xét, Thúc Sinh quả là người có công khi cứu vớt nàng ra khỏi lầu xanh Tú Bà nhơ nhớp và quả là có thương xót nàng trong lúc bị Hoạn Thư đánh ghen cay nghiệt. Nhưng từ trong bản chất, Thúc Sinh là kẻ không dám xả thân vì người yêu nên cuối cùng bỏ cuộc nửa vời. Là người thông minh, nhạy cảm, Kiều hiểu được thực chất tình cảm ở con người này. Thế cho nên, đền ơn Thúc Sinh, trong lời lẽ của Kiều vẫn có chút gì gượng gạo. Sự gượng gạo đó được phủ lên bằng lớp từ hoa mĩ mang phong cách ngôn ngữ ước lệ, khuôn sáo: "nghĩa nặng nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, há dám phụ lòng cố nhân".

Thêm một chi tiết cần lưu ý: lễ vật đền ơn. Với mụ quản gia và vãi Giác Duyên là: "Nghìn vàng gọi chút lễ thường/ Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân". Họ được đền đáp bằng vàng, tương ứng với tấm lòng tốt vô tư của họ. Còn với chàng Thúc lại là: "Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân". Không nói chuyện lớn nhỏ, chỉ thấy chúng có sự khác biệt nhau về tên gọi và giá trị. Điều này đủ thấy Kiều là người thật rạch ròi, sòng phẳng và tinh tế.

Cuối lời đối thoại với Thúc Sinh, Kiều lại tung ra một tràng lời đe nẹt Hoạn Thư với một ngữ khí nôm na, quyết liệt đối lập với những lời cao nhã vừa rồi. Tiết tấu các câu thơ nhanh, dứt khoát, thành ngữ dân gian dày đặc khiến cho Kiều như vụt chuyển thành một người khác, đáo để một cách rất ... đàn bà: "Vợ chàng quỷ quái tinh ma/ Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau/ Kiến bò miệng chén chưa lâu/ Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa". Nếu quả thực Kiều hàm ơn sâu sắc và trân trọng Thúc Sinh, thiết nghĩ nàng sẽ không nỡ nói ra những lời cay nghiệt ấy...

Như đã nói trên, chủ tọa phiên tòa - xét theo tính hợp lí của đời sống thực, phải là Từ Hải, người ngoài cuộc. Oái oăm ở đây lại là Thuý Kiều, cùng lúc là nguyên cáo lẫn quan tòa. Mà phiên tòa chủ yếu giải quyết những ân oán cá nhân lại được phơi giữa ba quân, nơi thanh thiên bạch nhật. Bởi vậy, mọi phán quyết không thể tùy tiện chủ quan mà phải phù hợp với lẽ phải và lòng người. Vả chăng, một phiên tòa chân chính, vai trò của luật sư bào chữa luôn được đề cao.

Ở đây, Hoạn Thư - bị cáo - đồng thời kiêm luôn trạng sư cho mình.Trước đây, tư thế bị động của một người đàn bà trước nguy cơ "bị cướp chồng", nàng đã nhanh chóng nắm vai trò chủ động và trở thành đạo diễn tài ba của màn kịch: "Làm cho nhìn chẳng được nhau... Cho người thăm ván bán thuyền biết tay". Giờ đây, trước tình thế liên quan đến tồn vong của danh dự và tính mạng, Hoạn Thư đã tỏ ra vô cùng xuất sắc. Có thể nói, Hoạn Thư là nhân vật phụ nữ sinh động, đáng nể và đáng sợ nhất trong số những nhân vật phụ nữ của Truyện Kiều! Thúy Kiều hơn Hoạn Thư ở tấm lòng nhưng không bao giờ là đối thủ của Hoạn Thư về mưu trí, kể cả ở màn Báo oán này.

Hãy xem Thuý Kiều vào vị trí quan tòa xử tội: "Thoắt trông nàng đã chào thưa:/ Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây".

Câu "chào thưa" mát mẻ, mỉa mai, đay nghiến tuy có phản ánh cái thế "thay bậc đổi ngôi", ngầm kiêu của Kiều, nhưng thực ra không có nhiều tác dụng để áp đảo đối phương "ngay từ loạt đạn đầu", mà vô tình nó lại giống như một sự khơi gợi lòng kiêu hãnh của dòng dõi trâm anh thế phiệt ở ả ta mà thôi.

Rồi sau đó là một tràng lời đe nẹt chung chung, không có nội dung luận tội cụ thể: "Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan/ Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".

Hầu như tất cả đều là những dáng dấp của thành ngữ dân gian để nói về đàn bà và lẽ đời nhân quả nói chung. Hớ hênh, vô ý hay là khó nói, Thuý Kiều như đã vô tình gợi ý cho Hoạn Thư quỷ quyệt để ả có cơ hội chộp lấy và xoáy sâu vào hai chữ "đàn bà", "thói hồng nhan" trong lời tự bào chữa.

Sau một thoáng sợ hãi "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư nhanh chóng tìm ra con đường thoát thân tuyệt hảo bằng tất cả sự khôn ngoan vốn có.

Về lẽ chung, "Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều". Đúng là như thế, nhưng cùng với nó còn một quy luật nữa, cô (Thuý Kiều) cũng cần phải hiểu: "Rằng: "Tôi chút phận đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"; "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai".

Nếu Thuý Kiều đánh trúng vào cái tội tàn ác, cay nghiệt trước đây của Hoạn Thư, thì Hoạn Thư đã khôn khéo lái mũi tên sang hướng khác: Đàn bà với chuyện ghen tuông! Bằng sự phản bác đúng lí, Hoạn Thư đã nhanh chóng san hòa 1-1, lập lại thế cân bằng giữa quan tòa và tội phạm. Từng từ ngữ một, Hoạn Thư đều cân nhắc kỹ lưỡng: Không chỉ "đàn bà" mà còn là "chút phận" (thu nhỏ hết mức thân phận vốn mỏng manh); "người ta" (quy luật phổ biến), "thì cũng" (tất yếu), "thường tình" (đó là chuyện dễ hiểu); "chưa dễ ai chiều cho ai" (ai lâm vào cảnh ấy, kể cả cô - Thúy Kiều - cũng hành xử thế thôi!). Qua lời Hoạn Thư, đòn ghen hiểm độc xưa kia mà ả dành cho Kiều trở thành nhẹ tênh.

Về lẽ chung thì như thế, còn tình riêng: "Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo".

Đây là đòn phản công hiểm ác nhất nhằm hạ uy thế quan tòa của Kiều. Một câu khiêm nhường: "nghĩ cho..." mà chẳng khác nào kim châm đau nhói vào tâm khảm của Kiều. Vì nó nhắc nhớ đến tháng ngày ở Quan Âm các với tâm trạng hoang mang lo sợ "miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này", đến - đặc biệt đến - việc Kiều chạy trốn có mang theo chuông vàng khánh bạc để độ đường phòng thân mà không bị Hoạn Thư truy đuổi. Cái ân: "đánh" xong mở cửa cho ra của Hoạn Thư đối với Thuý Kiều, đó là hiện thực. Công bằng mà xét, so với lũ Mã, Sở, Bạc..., Hoạn Thư hơn chúng là không đẩy Kiều tới bước đường cùng và không phải không có lúc ứng xử với Kiều một cách "quân tử".

Và nữa: "Lòng riêng riêng những kính yêu", lý lẽ này của Hoạn Thư cũng có cơ sở thực tiễn khá vững vàng, bởi đã có đến ba lần Hoạn Thư vì "tri ngộ" tài năng của Kiều mà có phần nương nhẹ, thậm chí thương cảm với Kiều khi nàng trong tay ả.

"Già dơ" hơn, Hoạn Thư gạt lẽ chung, tình riêng ra một bên, nhận tội lỗi về mình: "Trót đà gây việc trông gai". Một cách nói giảm nhẹ, khiến người nghe có cảm giác rằng cái sự đánh ghen có trù liệu kĩ càng, bài bản và cay độc trước đây của Hoạn Thư dành cho Thuý Kiều chỉ là đã quá tay ngoài chủ ý! Và cuối cùng, Hoạn Thư đánh vào tình cảm và sĩ diện của đối phương: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?". Câu nói chứa đựng sự tâng bốc, đề cao lòng nhân hậu của Kiều và xin xỏ; nhưng xin xỏ mà vẫn giữ được cái thế không van lơn, cái thế của một người làm chủ tình huống, mang theo cái "hách" của dòng dõi trâm anh thế phiệt.

Có thể nói, trong màn trả ân báo oán, Hoạn Thư đã bộc lộ sự khôn ngoan kiệt xuất trong vai trò trạng sư tự bào chữa cho mình.

Với lời tự bào chữa đầy thuyết phục ấy của Hoạn Thư, vị quan tòa Thuý Kiều không thể không tha bổng cùng vời lòng thầm phục đối thủ: "Khen cho: "Thật đã nên rằng/ Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời/ Tha cho thì cũng may đời/ Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen/ Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh, xuống trướng tiền tha ngay".

Xem thế, cuộc đền ơn trả oán của Kiều lại trở thành dở dang, không trọn vẹn, như tất cả những dang dở không trọn vẹn trong suốt cuộc đời nàng.
 
T

tunkute123

Theo em, Kiều chỉ là một con người bình thường, không phải hoàn hảo, có mặt xấu và tốt.
1. Trước hết, có thể thấy Kiều là một kẻ cơ hội và lạm dụng quyền lực. Khi Từ Hải gặp Kiều, và cả lúc chia tay, tại sao cô không kể ân oán, mà phải đợi đến lúc tướng công có đủ quyền lực, binh mã thì cô mới có ý định báo ân và trả thù. Có phải Kiều chỉ là 1 con người bình thường : ai có quyền lực trong tay cũng sẽ lạm dụng nó.

Trong quân có lúc vui vầy,
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
… Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân oán đôi đường chưa xong

2. Kiều dùng tình cảm hơn là lý trí để xét đoán người khác :

a)Thúc Sinh có thật là ân nhân không ? hay hắn chỉ là gốc rễ gây ra sóng gió ngày hôm nay : những việc làm của hắn đâu đáng mặt nam nhi : Phụ nghĩa với người vợ: Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày..., và dối trá nhu nhược :
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?,

Hắn cứu Kiều ra khỏi bi kịch lầu xanh nhưng dễ dàng đẩy Kiều vào 1 đau khổ khác.

b.)Kiều thù ghét Hoạn Thư chỉ vì bị đánh ghen và bị làm nhục, nhưng nếu xét lại, thì chính Kiều và Thúc Sinh có lỗi trước, đẩy Hoạn Thư đến chỗ không thể nhịn được nữa :

Khi Thúc sinh và kiều vui vẻ bên nhau, Hoạn Thư đầu tiên là tủi phận , cố nhịn:
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa

Hoạn Thư đã suy xét trước sau :

Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?

và đã giữ thể diện cho chồng : Khi có kẻ ton hót chuyện của Sinh và Kiều :

Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng,
Nào ai còn dám nói năng một lời!

Chỉ cần tự xét mình, Kiều cũng không có quyền thù oán Hoạn Thư

c.) Kiều tha cho Hoạn Thư chỉ vì bị đuối lý, càng làm rõ thêm cho tính cách của Kiều chỉ là người không có suy nghĩ sâu sắc.
khi gặp lại Hoạn Thư, chỉ thấy sự cay nghiệt và thù hận trong từng lời nói của Kiều:
Thoắt trông, nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Trong khi đó Hoạn Thư rất bình tĩnh đối đáp, có lý, có tình:
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Không chỉ là giỏi ăn nói, khôn ngoan, mà còn có lý. Kiều tha cho Hoạn Thư không phải vì nhân hậu, nhưng vì đuối lý hoàn toàn.

Nếu chỉ tha thứ cho 1 mình Hoạn Thư mà Kiều đã được bao nhiêu sách giáo khoa khen là nhân hậu, thì hành động giết người dã man: Máu rơi thịt nát tan tành diễn ra sau đó phải hiểu như thế nào.

Kết luận: Kiều chỉ là một con người bình thường như chúng ta, có tính tốt và tính xấu, cũng độc ác, cũng yếu đuối... Có thể Kiều đáng thương, nhưng đừng gán cho Kiều những tính cách quá cao thượng và đẹp đẽ.

theo em, bao giờ việc học Văn ở nhà trường có tinh thần phản biện và nghiên cứu, chứ không còn học vẹt, môn Văn sẽ có giá trị nhân bản sâu sắc hơn, tâm hồn học sinh sẽ được phát triển phong phú hơn.
 
T

tunkute123

Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, trong bản “ Kim Vân Kiều truyện” viết như sau: “...Phu nhân lại truyền cho tả hữu đem Kế thị (mẹ Hoạn Thư ra nọc đánh 30 roi). Quân lính đương sắp ra tay, thì Hoạn Thư ôm chầm lấy mẹ xin chịu đòn thay, và mụ quản gia cũng vội quỳ xuống thưa rằng : “Tội trạng của bà chủ tôi quả thực không thể tha thứ, vậy kẻ tớ già này xin tình nguyện thay chết cho chủ mẫu. Phu nhân rằng : “ Thôi thì ta cũng nể lời mụ quản, tha chết cho thị để mụ nhận lãnh đem đi”. Mụ quản tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra ngoài trại. Nhưng Kế thị năm ấy ngoài 60 tuổi, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, chưa từng gặp cảnh khổ nhục bao giờ mà nay bị bắt từ huyện Vô Tích giải đến, khổ sở biết bao, lại thấy ba quân giết người như rạ, trong khi tuổi nhiều, sức kiệt, mụ đã khiếp đảm chết ngay tức thì. Mụ quản gia đành ngồi một bên để trông nom thi thể. Vương phu nhân thấy mụ quản gia đem Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo cổ lên đánh một 100 trượng. Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ để cho một cái khố, tóc bị buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi giăng ra, hai tên thì cầm roi ngựa đứng trước và sau. Một tên đứng từ trên đánh xuống, một tên đứng từ dưới đánh lên, đánh như con đỉa bỏ trong thùng vôi, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn giãy giụa kêu trời. Toàn thân Hoạn Thư chẳng còn miếng da nào lành lặn ! Sau khi báo cáo đủ trăm roi, phu nhân truyền lệnh lôi ra trao cho Thúc Sinh nhận lãnh…” (Trích trang 367, 368 cuốn “ Truyện Kiều -đối chiếu” - Phạm Đan Quế - NXB Hải Phòng 1999).
 
C

conan99

Lần thứ hai rơi vào cảnh lầu xanh Kiều đã may mắn gặp Từ Hải. Từ Hải không những đã giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh mà còn đưa nàng từ vị trí thấp hèn, tủi nhục lên hàng “mênh phụ phu nhân”. Từ đây, nàng bước lên địa vị như một “quan toà” thi hành công lý cho chính mình “ơn đền oán trả” phân minh.
Đoạn thơ trích miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa cho những người đã từng cưu mang giúp đỡ nàng, đồng thời cũng muốn trừng trị thích đáng những kẻ đã từng nhẫn tâm hại nàng. ( Từ câu 2325 đến 2378 )

Đoạn trích gồm 2 phần :

-12 câu đầu : Báo ân (đền ơn Thúc Sinh)

- các câu tiếp theo : Báo oán (Cuộc đối đáp giữa Kiều và Hoạn Thư)

II/Đọc và hiểu văn bản :

1/Kiều báo ân :

Được mời tới nơi Kiều xử án, trước những “gươm lớn giáo dài” Thúc Sinh vô cùng kinh hãi :

“Cho gươm mời đến Thúc Lang

Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”

Thần sắc chàng họ Thúc như chẳng còn chi : Mặt xanh “như chàm đổ”, người thì cứ run lên bước đi không muốn nổi : “mìng dường dẽ run” là như thế. Hình ảnh ấy đã mô tả đúng tính cách của chàng ta-một thư sinh nhu nhược- Trông thật tội nghiệp.
Nhìn thấy hình ảnh này Kiều đã không khỏi động lòng trắc ẩn. Lời lẽ của nàng dành cho họ Thúc là những lời xuất phát từ một tấm lòng tri ân sâu sắc. Chính chàng là người đã đưa nàng ra khỏi cảnh bùn nhơ. Cùng với chàng, Kiếu cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc trong một cuộc sống gia đình. Quả là “nghĩa nặng nghìn non”. Nàng đã dùng nhiều từ Hán Việt : “nghĩa, chữ tòng, cố nhân, tạ lòng…" lại dùng cả điển tích “Sâm Thương” thật trang trọng để diễn tả lòng biết ơn của mình.

“Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không ?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”

Cho dù vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều đã lâm vào kiếp tôi đòi nhưng nàng hiểu nỗi khổ của mình không phải là lỗi của Thúc Sinh mà thủ phạm chính là Hoạn Thư. Kiều thông cảm cho hoàn cảnh của chàng. Vì thế mà dẫu có đền ơn bao nhiêu cũng không sao đền đáp cho xứng đáng :

“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là”

Trong khi nói vơi Thúc Sinh, Kiều đã nhắc đến Hoạn Thư. Nói đến tiểu Thư họ Hoạn, ngôn ngữ Kiều thật bình dị. Nàng dùng cả những thành ngữ quen thuộc nơi dân gian “ Kẻ cắp gặp bà già. Kiến bò miệng chén”, những từ thuần Việt thật dễ hiểu :

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến trong miệng chén bò lâu,

Mưu sâu thì hoạ cũng sâu mới vừa”.

2/Kiều báo oán:

Vừa ân cần thâm trọng từng lời với Thúc Sinh bao nhiêu thì khi tiếp Hoạn Thư lời nói, hành động của Kiều đã ngoặt ngay lại với những lời lẽ châm chọc, biểu thị thái độ mai mĩa cay độc :

“Thoạt trông nàng đã chào thưa:

Tiểu thơ cũng có bây giờ tới đây ?”

Thoạt nghe là những lời lẽ như khi nàng còn là “Hoa nô” trong nhà họ Hoạn. Vẫn một điều”chào thưa”, hai điều “Tiểu thư” cứ như chưa có sự thay bậc đổi ngôi gì. Điều này càng làm cho Tiểu thư họ Hoạn thêm kinh sợ.
Từng lời của Kiều kèm theo sự đay nghiến. Từng câu thơ dằn ra từng tiếng với các từ được lặp lại như nhấn mạnh thêm : “dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái…” Cách nói này thật phù hợp với Hoạn Thư, một kẻ vốn nham hiểm “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong han hiểm giết người không dao”.
Điều này cho thấy Kiều quyết tâm trả thù, trừng trị Hoạn Thư một cách xứng đáng như nàng đã báo trước với Thúc Sinh :

“Kiến trong miệng chén bò lâu

Mưu sâu thì hoạ cũng sâu mới vừa”

3/Xử trí của Hoạn Thư:

Trước thái độ “vồn vã và lễ phép” của Kiều, Hoạn Thư quả thật đã vô cùng kinh sợ. Nhưng vốn là kẻ khôn ngoan, giảo hoạt, Hoạn Thư đã kịp thời trấn tỉnh để liệu kế thoát tội:

“Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Cúi đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

Rằng: Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ khi ra các viết kinh,

Với khi dứt cửa niệm tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai chìu cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể ơn bài nào chăng ?”

Để “kêu ca” cho mình, trong tám câu ngắn gọn nhưng Hoạn Thư đã trình bày bốn luận điểm :

Một : Tôi là đàn bà nên việc ghen tuông là chuyện thường tình.
Hai: Hãy nghĩ lại tôi đã tốt như thế nào khi cho cô ra các viết kinh thậm chí khi cô bỏ trốn (ăn cắp đồ nhà tôi) tôi cũng chẳng cho người theo bắt lại (kể công).
Ba: Tôi với cô cùng cảnh chồng chung, nếu cô ở vị trí tôi thì chắc gì “ai đã nhường cho ai”.
Bốn: Nhưng dẫu gì thì tôi cũng có lỗi với cô, bây giờ tôi chỉ mong vào lượng khoan dung "trời bể"của cô ... tùy cô tha giết mặc lòng(vừa nhận tội, vừa tâng bốc).
4/ Kiều tha bổng Hoạn Thư :

Sôi sục lòng thù hận, quyết trả cái nhục “tôi đòi” nhưng trước những lời kêu ca "chí tình chí lý" của Hoạn Thư, Kiều đã phải đổi thái độ :

“Khen cho thực đã nên rằng,

Khôn ngoan rất mực nói năng phải lời.

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen”.

Kiều đã phải thừa nhận tài ăn nói của Hoạn Thư là “khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời”. Những lập luận của Hoạn Thư đã khiến Kiều bối rối, khó xử. “Tha ra thì cũng may đời . Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen” nên cuối cùng tuy có ý răn đe nhưng Kiều đã khoan dung độ lượng “Dã lòng tri quá thì nên. Truyền quân lịnh xuống trướng tiền tha ngay”.

Đúng ra cũng phải thấy rằng không chỉ vì Hoạn Thư “gỏi mồm mép” mà được thoát chết. Ở đây cũng phải kể đến tấm lòng khoan dung độ lương và nhân hậu vốn có của Kiều. Nàng ắt nghĩ : Hoạn Thư đã hạ mình nhận tội và có ý xin tha thì nàng cũng sẵn sàng cư xử theo truyền thống nhân gian “thượng võ” : “Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại”.

Em tham khảo thêm nhé!

5/Tính cách của Kiều và Hoạn Thư :

-Kiều là một phụ nữ có lòng nhân hậu và độ lương.

-Hoạn Thư là một kẻ “khôn ngoan rất mực”, biết ăn nói.

GHI NHỚ: Qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả đã làm nổi bật tính cách nhân vật Tuý Kiều và nhân vật Hoạn Thư.

Thuý Kiều báo ân, báo oán thể hiện ước mơ thực thi chính nghĩa và công lý theo quan điểm quần chúng “ Ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ”.
 
Top Bottom