Văn học

T

tandat_htd

hi bạn!bài thơ tự tình thì mình học rồi nhưng còn bài thơ thu điếu thì chưa học nên mình viết về 1 bài nghen
hai câu đầu bài thơ lả hai câu đề nói sơ lược về hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ
đêm khuya văng vẳng trống canh đồn
trơ cài hồng nhan với nước non
đây là một hoàn cảnh rất dễ gợi buồn nhất,đặc biệt là đối với những thi sĩ có tâm hồn đa sầu đa cảm như nhà thơ,một con người lận đận đường tình,và khoãnh khắc này là lúc tác giả như sống thật với chính bản thân mình,bạn có thể liên hệ với câu thơ trong truyện Kiều
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
giật mình mình lại thương mình xót xa
hoàn cảnh của hai người có sự tương đồng ngay cả trong tâm trạng
tiếng trống văng vẵng trong đêm khuya cảng tô đậm thêm sự thanh vắng và cô đơn,làm cho lỏng người thêm nặng triễu
từ"trơ" cho thấy cảm xúc của tác giả như trơ lì,từ "cái " vốn là để chỉ những vật vô tri vô giác nhưng nhà thơ dùng đi chung với "hồng nhan" như tự cười thân phận của mình,tự đặt mình ngang hàng với những vật vô tri vô giác đó,cách gọi này chứa đựng bao nổi tủi hờn chua xót.
hai câu thực
chén rượu....chưa trỏn
nhà thơ muốn mượn rượu giài sầu,quên tình đời,tình người nhưng rượu vào thì sầu lại càng sầu,"say rồi lại tỉnh",ở đây theo mình từ "hương"phải chăng là nhà thơ tự gọi chính mình??!!vì trong bài thơ"mời trầu"nhà thơ cũng đã dùng cách này.trong câu vầng trăng...tròn có hiện lên một mâu thuẫn,vầng trăng đã bóng xế như cuộc đời nhà thơ đã xế chiều vậy mà vẩn còn lận đận,truân chyên"khuyết chưa tròn",đây là một hình ảnh ẩn dụ đẹp,một phần thể hiện dc khát khao của nhà thơ về hạnh phúc nhưng vẫn chưa thành hiện thực
hai câu luận:
xiên ....mấy hòn
hai câu thơ này qua cảnh mà tả tâm trạng,hai câu này có thể nhìn thấy điểm nổi bật là có sự đảo ngữ,các động từ mạnh như:đâm toạc,xiên dc đặt ra đầu câu nhằm gâyấn tượng cho người đọc về sức sống mãnh liệt của tự nhiên dù cho đó chỉ là những vật vô tri"đá" và nhỏ bé"rêu",vậy dụng ý của tác giả là muốn nói:những sinh linh nhỏ bé như vậy còn muốn sống và thể hiện mình thì huống hồ là mình?!hai câu thơ này cũng tạo nên sức sôg cho cả bài thơ,nhà thơ dù buồn nhưng vẫn còn niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.
hai câu kết
ngán....con con
hai từ đồng âm"xuân"đặt trong 1 câu cũng là một điểm thú vị,mùa xuân của đất trời thì vĩnh hẳng,tuần hoàn mải mải,vậy mà tuổi xuân thì ngày 1 tàn phai theo năm tháng,đây chính là nổi trăn trở của nhà thơ,thật đáng buồn
thôi mình k viết nữa,chúc bạn thi tốt nghen:)
 
T

thienthan74

Tự Tình II

+> hai câu đề : Nỗi niềm buồn tủi của HXH

Thể hiện qua:
+ Cách cẩm nhận thời gian, không gian, nhịp điệu gấp gáp, liên hồi của tiếng trống, nghe âm thanh cũng là nghe thời gian trôi đi...
--> Diễn tả tâm trạng rối bời, cô đơn và đau khổ cho số phận của mình của HXH
+ Từ "trơ": Nhấm mạnh sự tủi hổ, bẽ bàng, từ "cái" đặt trước từ " hồng nhan" --> Tạo nên một sắc thái biểu cảm mang nét mỉa mai về sự rẻ rúm của dung nhan, kết hợp vs cụm từ " vs nước non" gợi sự dãi dầu, cay đắng của thân phận để thấm thía, như từ " trơ" không chỉ có sắc thái tủi hổ mà còn ẩn chứa sự thách thức: Trong cái đâu chứa đựng cái bản lĩnh của HXH

+> Hai câu thực:

- Nói rõ hơn về cảnh và tình. Nhân vật trữ tình buồn khỏ, thức thâu đêm, xót xa cho thân phận của mình, phải mượn rượu để giải sầu, nhưng uống không những không say mà lại càng tỉnh. Tỉnh --> Càng đau đớn, xót xa :" Chén rượu hương đưa say lại tỉnh" gợi ra cái vòng luẩn quẩn của duyên phận, trò đùa của "con tạo" ( tạo hoá)
- Mối tương quan giữa trăng và người --> gợi sự áo le: trăng sắp tàn mà vẫn khuyết chưa tròn cũng như tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn
+> Hai câu luận: Bộc lộ nỗi niềm phẫn uất


" Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn"

--> Những sinh vật bé nhỏ, vô tri vô giác những cũng phải chịu một số phận yếu mềm, sự vô nghĩa, dườg như chúng muốn bứt phá để trở nên cứng cỏi hơn, sắc nhọn hơn, và để làm một việc ji đó mạnh mẽ, dữ dội, làm thau đổi số phận
- Đảo ngữ--> làm nổi bật sự phẫn uất của cỏ cây, đất đá. Các đôgnj từ mạnh " xiên, đâm" như muốn vạch đất trời mà hờn oán.
--> tất cả gợi lên sự phẫn uất và còn ngầm chứa trong đó sự phản kháng


+> Hai câu kết: Tâm trạng chán trường của HXH

- Ngón: Chán về cuộc đời áo le abwcj bẽo của mình
- Xuân cso hai nghĩa:
+ 1 lần nữa
+ trở lại
--> sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi trẻ của những ước mơ khát khao cháy bỏng ....
 
T

thuy_078

tự tinh
1.Hai câu đề.
- Mở đầu bài thơ là điểm thời gian canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với mình cũng là lúc XH nhận ra tình cảnh đáng thương của mình.Sự cô đơn trơ trọi được đặt trong thời gian.Tiếng trống canh được cảm nhận trong cái tỉnh lặng, trong sự phấp phỏng như sợ bước chuyển mau lẹ của thời gian. Đối diện với thời gian ấy là “cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh nỗi đau của sự cô đơn, của sự bất hạnh trong tình duyên.Thông thường, giữa không gian rợn ngợp con người cảm thấy bé nhỏ, cô đơn, ở đây HXH lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thuỷ vô chung…, “đêm khuya…dồn”: cái nhịp gấp gáp liên hồi của trống vừa là sự cảm nhận vừa là sự thể hiện bước đi liên hồi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi đi thì còn lại là sự bẽ bàng…"Trơ” đặt đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. “trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó hai chữ “hồng nhan” là để nói về dung nhan thiếu nữ mà lại đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là dãi dầu mà còn là cay đắng, vì vậy nỗi xót xa càng thấm thía, càng ngẫm lại càng đau.Nhịp điệu câu thơ: 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.Tuy nhiên bên cạnh nỗi đau là bản lĩnh Xuân Hương, bản lĩnh ấy thể hiện ngay trong chữ “trơ”. Trong văn cảnh câu thơ, chữ “trơ” không chỉ là bẽ bàng mà còn là thách thức. Chữ trơ kết hợp với từ nước non để thể hiện sự bền gan thách đố.
2.Hai câu thựcTrong khoảnh khắc của canh khuya ấy là một con người cùng đối diện với rượu và trăng, mượn trăng làm bạn, mượn rượu vơi sầu. Nhưng rượu không thể say, trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Đó là một nỗi niềm chất chứa thấm lan vào cảnh vật. Ngậm ngùi thân phận con người, tuổi xuân qua mau mà duyên vẫn còn chưa trọn vẹn.Cụm từ “say lại tỉnh” → vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa tăng và người. Trăng sắp tàn ( “bóng xế”) mà vẫn “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn phận hẩm duyên ôi…
3.Hai câu luận.Hai câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ .........................
câu cá mùa thu
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu ba bài nức danh nhất về
1 thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu
đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn,
buồn của một nhà nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu
cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào
thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884).
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền
câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc
mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được
rong rêu tận đáy tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian.
Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi
nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền
câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền
câu Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi
ra sự tun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét
thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sông biếc theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió
khẽ đưa vèo) tá không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc
với lá vàng Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng
khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí.
Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thư, tô đậm cái nhìn thấy và
cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trọng dùng
từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ
bay xoay xoay khẽ đưa vẻo của chiếc lá thu. Chữ vẻo là một nhãn tự
mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. ông thổ lộ
một đời thơ mới có được một. câu vừa ý: Vèo trông lá rụng đầy sân"
(cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. áng mây, tầng mây
(trắng hay hồng ?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm,
tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con
đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ
nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam
nguyên Yên Đo lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng
khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc
của làng quê. Thi sĩ .như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm
vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một dối tượng khác:
Tựa gối ôm cắn lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh
vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ
trúc mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế
nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái
chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người
câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc
nghĩ vế một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy
nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu
đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. âm thanh ấy hòa quyện
với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưn hồn ta về với
mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng
cô đơn và lặng lẽ buồn: Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn
thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có
xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo... và chỉ có một
màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cánh đẹp êm đềm, tĩnh lặng
mà man mác buồn. Một tâm thế nhàn và thanh cao gắn bó với
mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc
thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết. Vần thơ: veo
- teo - vèo - teo - bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu
thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ thuật
vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương.
Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngu tình tuyệt bút.

mong bạn viết bài dược tốt
good luck!
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom