Văn học Việt Nam

T

thien97_bn

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1 . hãy vẽ sơ đồ các bộ phận của văn học việt nam
2 . trình bày quá trình phát triển của văn học việt nam.
3 . dùng hiểu biết của mk để làm sáng tỏ nhận định : văn học việt nam đã thể hiện chân thực, sâu sắc đời sống tư tưởng , tình cảm của con người việt nam trong nhiều mối quan hệ đa dạng.hjhj:):):):):)
 
Last edited by a moderator:
T

taitutungtien

câu 2 văn học trung đại ( thế kỷ X- XIX) :
-Hthành và phát triển trong khỏang10 thế kỷ, gắn liền với những thịnh suy, thăng trầm của xhpk Việt Nam và có quan hệ giao lưu với nhiều nền văn học ở khu vực Đông Á, Đông Nam .Á.
- Văn học được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (còn gọi là văn học Hán-Nôm).
+Văn học chữ Hán có vai trò là chiếc cầu nối về tư tưởng và thể loại ,thi pháp với văn học cổ -trung đại Trung Quốc và đạt nhiều thành tựu .
+Văn học chữ Nôm : ra đời muộn, chịu ảnh hưởng sâu sắc của VHDG, tiếp nối truyển thống lớn văn học trung đại ,: yêu nước, nhân ái, dân tộc, dân chủ .
2/ Văn học hiện đại :
-Từ thế kỷ XX – nay
- Viết bằng chữ quốc ngữ, phát triển trong một điều kiện lịch sử xã hội có nhiều biến động.có đội ngũ nhà văn, có đời sống vhọc, nhiều thể loại mới hình thành, và hệ thống thi pháp mới.
+ Văn học từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng Tám 1945 : giai đọan giao thời văn học truyền thống, lại vừa tiếp nhận ảnh hưởng của văn học thế giới để hiện đại hóa .
+Văn học từ 1945 đến nay : Văn học phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ,đạt được nhiều thành tựu lớn.
- Hệ thống thể loại mới trong văn học không ngừng được phát triển và hòan thiện .
.

câu 3

A.Mở bài
Không hiểu vì sao cứ mỗi lần nghĩ đến đất nước và con người VN ,chúng ta lại nghe vang vọng trong tâm trí mình những câu thơ của Huy Cận :
“ Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực , sang hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, bao dung.”
Sảng khoái biết bao! Tự hào biết bao! Trong tâm trí ta bỗng cuồn cuộn đổ về dòng lịch sử hang ngàn năm của dân tộc. Bừng sang trong tâm hồn của cha ông ta là công cuộc lao động , là chiến công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , là trời bể ân tình thủy chung như nhất , yêu thương đùm bọc lẫn nhau của những người quen đứng đầu song ngọn gió , chống mọi thế lực thù địch. Qua bao phong ba của lịch sử , dân tộc ta đã thể hiện một sức sống mãnh liệt “ Lưng đeo gươm , tay mềm mại bút hoa” .Quả thật văn học dtộc là một thứ máu của Tổ quốc . Dòng máu văn học ấy chảy và thắm vào tâm hồn chúng ta hôm nay với một sức sống rạo rực mãnh liệt . Yêu biết bao nền văn học ấy , nền văn học mà nội dung cũng như hình thức đều phản ánh chân thực , sâu sắc tư tưởng , tình cảm và sức sống , sự vươn lên của con người VN trong nhiều mối quan hệ đa dạng.
B.Thân bài
1.Văn học trong quan hệ với thế giới tự nhiên
Sức sống ấy bắt đầu bằng mối quan hệ gần gũi,gắn bó với thế giới tự nhiên vô cùng chân thực , sinh động và độc đáo.Mỗi mảnh đất quê hương chúng ta đều mang hơi thở cuộc sống của những ngày cha ông gian khổ khẩn hoang vỡ đất để xây dựng non sông đất nước tươi đẹp và tích lũy nhiều hiểu biết phong phú , sâu sắc về thiên nhiên. Dưới hình thức của tư duy huyền thoại , các tác phẩm dân gian đã vô tình trở thành cây đàn muôn điệu của tâm hồn nhân dân , nhất là những người lao động VN. Con người VN đổ mồ hôi , xương máu gắn chặt tâm hồn mình với mảnh đất thiêng liêng ấy. Thiên nhiên đất nước giàu đẹp nhưng cũng lắm thử thách , hăm họa rình rập theo mỗi bước đi lên của con người VN . Mặc dù vậy , cái tình ta yêu đời , cái tình ta yêu cuộc sống , gian khổ mấy cũng vui được , cái vui vừa ngời chói , vừa trong sang lạ lùng .Với quy mô hoành tráng , sử thi thần thoại “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường đã tái hiện lại những hồi ức thô sơ nhưng hấp dẫn về một cộng đồng người trong quá khứ xa xưa vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại và phát triển . Hay câu chuyện truyền thuyết “ Sơn Tinh- Thủy Tinh” ngàn năm rồi vẫn sống trong long dân tộc , âm vang dữ dội , phản ánh những cố gắng không mệt mỏi của người Việt cổ để chiến thắng nạn lũ lụt ở đồng bằng Bắc Bộ . Truyện đề cao sức sống mạnh mẽ của loài người và phần nào giải thích hiện tượng lũ lụt hang năm. Ngoài ra , nhân dân lao động cũng tích lũy được khá sâu sắc về tự nhiên , thiên nhiên dưới hình thức những câu nói cô đúc . Những triết lí , trí tuệ trong tục ngữ bắt rễ từ cuộc sống sinh động phong phú nên nội dung cũng như hình thức của tục ngữ không khô khan mà nó vẫn như cây đời xanh tươi . Tục ngữ VN có rất nhiều chủ đề trong đó nổi bật là những câu tục ngữ về thiên nhiên , lao động sản xuất , về con người và xã hội :
“ Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất , tấc vàng bấy nhiêu.”
Hay
“ Nhất nước , nhì phân , tam cần , tứ giống”
Do điều kiện nền kinh tế nông nghiệp trồng cây lúa nước nên nhân dân ta hiểu rõ được giá trị của đất . Nói “tấc đất , tấc vàng” là vì sao? Vì đất là nơi ta ở , nơi ta sản xuất. Qua bàn tay và trí tuệ , tinh thần lao động , từ một mảnh đất cỏn con , chúng ta có thể làm ra lúa gạo , làm ra của cải , đem lại cuộc sống ấm no . Do đó , đất chính là vàng , một loại vàng sinh sôi và phát triển . Cùng với cách nhìn nhận , đánh giá giá trị của đất , cha ông ta cũng đã đúc kết bốn khâu quan trọng nhất trong quá trình làm ra cây lúa , hạt gạo trên đồng ruộng VN .Với con người Vn từ thuở xa xưa , thiên nhiên còn là người bạn thân thiết , Tình yêu thiên nhiên là một nội dung quan trọng của văn học VN . Trong ca dao , dân ca hiện lên những hình ảnh tươi đẹp , đáng yêu của thiên nhiên VN với đồng lúa , cánh cò , cây đa , bến nước , ánh trăng……
“ Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.”
Dưới hình thức ca dao tỏ tình , ví ghẹo , con người giãi bày tâm sự của mình với quê hương , đất nước .Vẻ đẹp của thiên nhiên , vẻ đẹp của lòng người quyện vào nhau trong câu ca dao mượt mà , khơi lên và chảy đằm thắm trong long ta một sức sống vừa bền bỉ ,vừa rạo rực ,mãnh liệt . Con người VN yêu lao động , biết quý vô cùng những giot mồ hôi mình đổ ra để chắt chịu xây dựng cuộc sống . Hình ảnh ấy ở mỗi miền quê lại có vẻ đẹp riêng say đắm long người . Nó không phải là riêng của ai mà nó là tiếng hát của tất cả mọi người đang sống ,đang ngày đêm lao động. Đến với văn thơ thời trung đại (từ thế kỉ 10 đến hết thế kỉ 19) , hình ảnh thiên nhiên đã có bước phát triển mới , nó không chỉ gắn liền với những gì gần gũi , thân thuộc của thế giới xung quanh mà còn gắn với lí tưởng đạo đức , thẩm mĩ . Hình tượng những cây tùng , trúc , cúc,mai tượng trưng cho khí tiết thanh cao của nhà nho chân chính .Còn với những bậc hiền nhân đó là:
“ Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bong mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn .
( Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi)
Hình ảnh những am mây , rừng cây , suối vắng (chốn lâm tuyền) ,rừng thông , núi trúc……thể hiện lí tưởng ẩn dật , thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường . Trong văn học hiện đại , tình yêu thiên nhiên thể hiện ở sự gắn bó với quê hương ,đất nước , ở tình yêu cuộc sống đặc biệt ở tình yêu lứa đôi . Tình yêu thiên nhiên trong VH có ý nghĩa biểu hiện nhân cách , thấm nhuần một tinh thần nhân văn cao quý.ư
 
T

taitutungtien

tiếp câu 3 nè
2.Văn học trong lịch sử dân tộc
Rồi cũng bước qua những ngày tháng chống thiên nhiên hung dữ , văn học cùng cha ông ta bước vào thời kì bảo vệ Tổ quốc , chống giặc ngoại xâm . Lịch sử dân tộc ta là lịch sử của những năm tháng con người VN đem xương máu của mình bảo vệ độc lập của dân tộc . Con người VN được tôi luyện và lớn lên không ngừng với cuộc chiến đấu chống ngoại xâm dai dẳng và quyết liệt . Buổi cha ông dựng nước cũng chính là buổi cha ông giữ nước . Những bàn tay biết cầm quốc , cái cày vỡ đất ấy cũng chính là những bàn tay vô cùng kiên quyết , dữ dội biết cầm vũ khí đánh giặc để bảo vệ vững chắc thành quả lao động của mình . Câu chuyện “ Thánh Gióng “ làm sống mãi trong tâm tư mỗi con người VN ý chí quyết chiến , quyết thắng quân xâm lược . Từ lòng yêu nước , con người VN này sinh long căm thù , giặc cướp nước . Đến một độ nào đó long căm thù ấy bùng lên , con người VN vụt trở mình lớn dậy cùng với hình tượng Thánh Gióng , cùng cây tre quê hương xung phong diệt giặt . Sức mạnh của long yêu nước , của ý chí căm thù là sức mạnh vô địch . Sức mạnh ấy bắt nguồn từ Thánh Gióng xa xưa và đã cuồn cuộn chảy trong mạch nguồn dân tộc ,làm nên một sức mạnh nội tại mãnh liệt không ngừng tăng lên , lớn lên mãi . Lịch sử những cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã sớm hình thành trong tâm trí con người VN một sự thống nhất tuyệt đẹp. Thống nhất là sự sống , là sức sống của Tổ quốc ta . Truyền thuyết đẹp về chín mươi chín voi quay đầu về mộ tổ vua Hùng , một con không chịu chầu liền bị chém cụt đầu đã chứng minh hung hồn chân lí đó. VH dân gian chúng ta có một ngạn ngữ được coi là phương châm sống : “ Giặc đến nhà ,đàn bà cũng đánh”. Ý chí đánh giặc đã sớm nhập tâm và dường như đã trở thành cái phần bẩm sinh trong mỗi con người VN.Cha ông chúng ta mỗi khi thấy vó ngựa của quân thù khua ngoài biên ải thì “ tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa ,chỉ căm tức rằng chưa xã thịt lột da nuốt gan , uống máu quân thù” ( Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn) ngày đêm canh cánh ý chí giết giặc. Núi sông ta cũng đã từng rung chuyển bởi tiếng hô “ quyết đánh” của hội nghị Diên Hồng và ý chí “ Sát Thát” của hào khí Đông A vang động chiều dài lịch sử dân tộc . Tiếp đó là hình ảnh những nghĩa sĩ trong những ngày đầu tiên chiến đấu chống Pháp ở đất Nam Bộ được nhà thơ mù lòa ,thiết tha yêu nước Nguyễn Đình Chiểu khắc họa thành công trong tác phẩm nổi tiếng là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”:
“Ngoài cật có một manh áo vải , nào đợi mang bao tấu ,bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông ,chi nài sắm dao tu , nón gõ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đất xong nhà dạy đạo kia
Gươm đeo dung bằng lưỡi dao phay , cũng chém rớt đầu hai nọ.”
Qua VH , sức sống người Việt còn rung lên mãnh liệt ,sảng khoái .Từ trong đêm đen nô lệ ,Đảng đã ra đời chói ngời ánh sang chân lí với một sức mạnh mới mẻ .Chủ nghĩa yêu nước trong VH hiện đại cũng ra đời trong hoàn cảnh đó. Khi gặp được chủ nghĩa Mác-Lê-nin ,Bác đã thắp lên triệu triệu niềm tin cho đồng bào . Bác đã chiến thắng mọi gian nguy , “ mặt trời chân lí chói qua tim” đốt nóng long người cuồn cuộn sinh lực vào ngày Cách mạng tháng 8 thành công. “ Tuyên ngôn độc lập “của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành lời tuyên bố dõng dạc của dân tộc VN kiêu hãnh.
Tình yêu lớn ấy đối với đất nước , những đồng cam cộng khổ vất vả hang ngày cũng như chiến đấu đã sớm gắn bó con người VN thành một khối yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong tình nhân ái cao cả . Cha ông ta đã tự dặn mình và dạy con cháu :
“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.”
Tình thương ấy là một trong những cội nguồn của sức sống con người VN .VH dân tộc đã ghi chép lại thật cụ thể khát vọng nhân đạo của con người qua hai khía cạnh chủ yếu . Một là văn học cật lực tố cáo , phê phán các thế lực áp bức , chà đạp lên quyền sống chính đáng của con người và bày tỏ lòng thương cảm với những con người bị áp bức , đau khổ . Trước hết là trong VH dân gian :
“ Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.”
Hay
“ Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”
Trong xã hội phong kiến , người phụ nữ không được tự quyết định cuộc đời mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Họ dù xinh đẹp , tài hoa đến mấy thì cuộc đời vẫn xô đẩy , chà đạp không thương tiếc . Còn đối với Hồ Xuân Hương , tính đả kích XH lại được đẩy lên thật mạnh mẽ khi mà hang ngàn năm trôi qua mà người phụ nữ vẫn vậy . Đặc biệt , văn học hiện thực giai đoạn 1930-1945 cũng đã lên tiếng phê phán gay gắt , quyết liệt chế độ thực dân nửa PK , phản ánh cuộc sống tối tăm , thê thảm của người dân cày xứ thuộc địa . Ta bắt gặp chị Dậu trong cảnh sưu thuế đè nặng lên đôi vai làng Đông Xá , cái ngột ngạt trong tiếng mõ , tiếng tù và , tiếng quát tháo , đánh đập của bọn tay sai PK . Cúng giống như chị Dậu , anh Pha và Chí Phèo cũng vấp phải hoàn cảnh tương tự mặc dù trước đó họ lương thiện và tốt bụng biết bao. Liệu trong đời thực sẽ còn bao nhiêu Nghị lịa , Bá Kiến ức hiếp dành nữa? Song song với việc tốt cáo XH tàn nhẫn bất công , VH hiện thực VN đã khẳng định mạnh mẽ những phẩm chất tốt đẹp từ ngàn xưa . Ngay trong giờ phút khó khăn đen tối nhất của cuộc sống , những phẩm chất đó lại càng sáng ngời hơn bao giờ hết , Hai là , VH thể hiện ước mơ tha thiết về một XH công bằng , nhân đạo đối với con người . Trong VH dân gian , mỗi truyện cổ tích là một giấc mơ đẹp , người xưa mơ ước ở hiền gặp lành , ước mơ đổi đời , điều đó làm cho truyện cổ tích kết thúc có hậu . Ca dao ca ngợi tình nghĩa giữa con người với người . Các tác giả trung đại như Nguyễn Du lại hướng đến tư tưởng nhân đạo cao cả . Những vần thơ lục bát của dân tộc VN vượt qua mọi phong ba của lịch sử , vượt qua mọi sự tấn công của các thể thơ Trung Quốc vẫn giữ được nét uyển chuyển đáng yêu của con người VN . Kiều là một nạn nhân song Từ Hải lại là người anh hung chiến đấu cho chính nghĩa . Chính nghĩa đi từ nước này sang nước khác không có giấy thông hành , VH chân chính không có biên giới . Nhiều nhân vật trong VH chống Pháp , chống Mĩ xâm lược tiêu biểu cho lí tưởng anh hung CM . Ta tìm về với mẹ Tơm , mẹ Suốt , người mẹ giành cơm nuôi đồng chí , nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng bằng buồng tim mình . Phản ánh con người và cuộc sống trong các mỗi quan hệ XH đã hình thành chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo trong VHVN.
3.Văn học với ý thức bản thân con người
Trong lịch sử và thực tiễn cuộc sống , con người luôn phải giải quyết mối quan hệ giữa tư tưởng vị kỉ và tư tưởng vị tha giữa ý thức cá nhân và ý thức cộng đồng . Không phải bằng nguyên lí triết học mà bằng con đường riêng của nghệ thuật , VHVN đã phản ánh quá trình lựa chọn , đấu tranh để khẳng định đạo lí làm người quý báu của dân tộc VN trong sự kết hợp hài hòa hai phương diện đó. Trong những hoàn cảnh nghiệt ngã quyết liệt như đấu tranh chống giặc ngoại xâm , đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt , con người VN buộc phải đề cao ý thức cộng đồng hơn ý thức cá nhân . Vì thế đôi khi con người ta phải hi sinh “ cái tôi “ cá nhân , coi thường mọi cám dỗ để bảo vệ đạo nghĩa và lí tưởng:
“Nếu mai đây có chết một thân lôi
Hai mươi tuổi tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão.”
Cái chết đó là cái chết cho cách mạng . Một cái chết mà như một du kích Pháp trước khi bị phát xít treo cổ nói : “ Tôi chết đi như chiếc lá rơi xuống , cho đất thêm màu , cho cây thêm tốt .” Đọc , ngta suy nghĩ . Một chân trời mới hiện ra , lí tưởng cộng sản chủ nghĩa vĩ đại . Ngta hiểu được long một người cộng sản . Nhưng trong hoàn cảnh khác ,như giai đoạn 1930-1945 hoặc từ sau 1986 đến nay , con người cá nhân thức tỉnh và được đề cao . Con người trong văn học các giai đoạn này đã suy ngẫm ý nghĩa cuộc sống trần thế , nghĩ đến quyền sống cá nhân , quyền hưởng tình yêu , hạnh phúc.Thể hiện “cái tôi” cá nhân cần khẳng định và Xuân Diệu đã làm được điều đó :
“Ta là Một , là Riêng , là thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.”
* Kết luận:
Nhìn chung , trong quá trình phát triển , VHVN cố gắng vun đắp xây dựng một đạo lí làm người với nhiều phẩm chất tốt đẹp như nhân ái , thủy chung , tình nghĩa , vị tha , giáu đức hi sinh vì sự nghiệp chính nghĩa , đấu tranh chống chủ nghĩa khắc kỉ đề cao quyền sống của con người cá nhân nhưng không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
C.Kết bài
Cuộc sống lên men ngây ngất . Những con người cầm sung “xung kích” dành giật từng mảnh đất với giặc lại lao vào cuộc chiến công hòa bình và văn học lại là chiếc máy quay nhỏ quay lại toàn cảnh xã hội . Văn học là nhân học , là tiếng nói của con người , là tấm gương phản chiếu thời đại . Đảng ta rất coi trọng văn học , cói nó như là một vũ khí đấu tranh sắc bén vì nó “ đã thể hiện chân thực , sâu sắc đời sống tư tưởng , tình cảm của con người VN trong nhiều mối quan hệ đa dạng “. VH có khả năng mang chính trị vào nhân dân như sức mạnh vật chất vậy . Chúng ta yêu cuộc sống của chúng ta , chúng ta yêu VH của chúng ta , một nền VH vì dân , do dân . Chúng ta không tiếc sức lực nhỏ bé của mình góp phần vào lực lượng mạnh mẽ đó . VH là sông mà mỗi người chúng ta phải là làn sóng nhỏ . Chúng ta vô cùng tán đồng với M.Gorki : “ Văn học là nhân học” . Một nền khoa học về con người thúc đẩy con người đi lên.

1 số ý bổ sung:

3.1. Phản ánh mối quan hệ với thiên nhiên
ở khía cạnh này, các tác phẩm văn học Việt Nam đã khái quát lại quá trình ông cha ta nhận thức cải tạo và chinh phục thế giới tự nhiên. Thiên nhiên bên cạnh những khía cạnh dữ dội và hung bạo, nó còn là ngư¬ời bạn. Vì vậy, nó hiện lên trong thơ văn thân thiết và gần gũi, t¬ươi đẹp và đáng yêu. Nó đa dạng và cũng thay đổi theo quan niệm thẩm mỹ của từng thời.
3.2. Phản ánh mối quan hệ quốc gia dân tộc
Đây là nội dung tiêu biểu và xuyên suốt lịch sử phát triển văn học Việt Nam, phản ánh một đặc điểm lớn của lịch sử dân tộc: luôn phải đấu tranh chống lại các thế lực xâm lư¬ợc để bảo vệ nền độc lập tự chủ của mình. Mối quan hệ quốc gia dân tộc đư¬ợc văn học đề cập đến ở nhiều khía cạnh mà nổi bật là tinh thần yêu nư¬ớc (tình yêu làng xóm, yêu quê cha đất tổ, căm ghét các thế lực giày xéo quê hư¬ơng, ý thức về quốc gia dân tộc, ý chí đấu tranh, khát vọng tự do, độc lập…). Nhiều tác phẩm của dòng văn học này đã trở thành những kiệt tác văn chư¬ơng bất hủ của đất nư¬ớc ta.
3.3. Phản ánh mối quan hệ xã hội
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, văn học Việt Nam cất lên tiếng nói tố cáo phê phán các thế lực chuyên quyền và bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những ngư¬ời dân bị áp bức, bóc lột. Các tác phẩm thuộc mảng sáng tác này đã thể hiện ước mơ da diết về một xã hội dân chủ, công bằng và tốt đẹp. Nhìn thẳng vào thực tại để nhận thức, phê phán và cải tạo xã hội là một truyền thống cao đẹp, là biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nư¬ớc ta.
3.4. Phản ánh ý thức về bản thân
ở ph¬ương diện này, văn học Việt Nam đã ghi lại quá trình lựa chọn, đấu tranh để khẳng định cái đạo lí làm ngư¬ời của dân tộc Việt Nam trong sự kết hợp hài hoà hai phương diện: tâm và thân, phần bản năng và phần văn hoá, tư¬ tư¬ởng vị kỉ và tư tư¬ởng vị tha, ý thức cá nhân và ý thức cộng đồng.Trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, văn học có thể đề cao mặt này hay mặt khác. Song nhìn chung xu hướng của sự phát triển văn học dân tộc là xây dựng một đạo lí làm ng¬ười với nhiều phẩm chất tốt đẹp nh¬ư: nhân ái, thuỷ chung, tình nghĩa, vị tha, giàu đức hi sinh…
Nói tóm lại, bốn mối quan hệ này phản ánh bốn lĩnh vực hoạt động thực tiễn và nhận thức chủ yếu của con ngư¬ời Việt Nam. Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử, tâm lí, tư¬ tư¬ởng, hai nội dung yêu nư¬ớc và nhân đạo đã trở thành hai nội dung nổi bật và có giá trị đặc biệt trong lịch sử phát triển nền văn học dân tộc chúng ta
.
nguồn net
 
K

khoctrongmua1999

I, Văn học dân gian (sử thi, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, truyện thơ, sân khấu dân gian, vè, ca dao, tục ngữ...)
II, Văn học viết
1, Văn học trung đại (từ TK 10-19)
a, Từ TK 10 đến hết TK 14
b, Từ TK 15 đến hết TK 17
c, Từ TK 18 đến nủa đầu TK 19
d, Nưả cuối TK 19
2, Văn học hiện đại (từ đầu TK 20 đến nay)
a, đầu TK 20-1930
b, từ 1930-1945
c, từ 1945-1975
d, từ 1975 đến nay

Câu 2,3:
1. Sự hình thành, phát triển và toàn thắng của những từ ngữ cách mạng tiến bộ
Những thuật ngữ cách mạng, tiến bộ về chính trị, xã hội và triết học đã phôi thai ở Việt Nam từ những năm 1930. Đường kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, viết năm 1926 là văn kiện đầu tiên, đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống thuật ngữ về chính trị, xã hội và triết học sau này. Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, các thuật ngữ về chính trị, xã hội và triết học phát triển thêm một bước nữa. Từ đó về sau, vốn thuật ngữ này lại được tiếp tục phát triển nhờ hệ thống báo chí của Đảng. Dầu sao, cho đến năm 1945, những từ ngữ cách mạng chỉ được lưu hành trong phạm vi nào đó. Đường kách mệnh là tài liệu Bác Hồ dùng để huấn luyện cho thanh niên Việt Nam ở Quảng Châu. Luận cương chính trị và các tài liệu báo chí khác của Đảng cũng đề phải được lưu hành bí mật, vì vậy, những từ ngữ cách mạng không thể phổ cập rộng rãi được. Phải chờ đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, vốn từ cách mạng dồi dào sau bao năm tích luỹ mới bùng ra mạnh mẽ. Tất cả mọi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược, thuộc đủ mọi tầng lớp đều quen thuộc và hay dùng những từ ngữ mới của cách mạng như: cách mạng, cứu quốc, đế quốc, độc lập, phản đế, phản phong, phong kiến, phồn vinh, quốc dân, thực dân, tiến bộ, Việt Minh, xã hội v.v... Từ đó đến nay, cùng với những bước tiến vĩ đại của dân tộc trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vốn từ ngữ cách mạng ngày càng phát triển, trở thành lớp từ tích cực, thâm nhập vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng.

Trong khi đó, hàng loạt từ ngữ phản ánh những tư tưởng chính trị, tôn giáo, triết học,... lạc hậu, phản động trước đây được dùng rộng rãi, ngày nay đã bị thu hẹp phạm vi sử dụng hoặc có khi bị loại hẳn ra khỏi vốn từ tiếng Việt. Ví dụ: a dong, a hành, a đảng, ái quốc chủ nghĩa, can vanh chủ nghĩa, cao hoàng, cao môn, đạo nhân, đăng đệ, đăng quang,...

2. Sự thâm nhập mạnh mẽ của các từ ngữ dân gian vào ngôn ngữ văn hoá
Cho đến những năm 20 của thế kỉ XX, Phạm Quỳnh vẫn coi “tiếng Nôm là lời tục trong dân gian của những kẻ không biết chữ”(1) và không thể dùng chúng trong văn chương cao quý của các bậc học giả, trí thức. Thế nhưng, mấy chục năm qua là thời kì vươn mình mạnh mẽ của tiếng nói dân tộc. Từ địa vị "nôm na mách qué", các từ ngữ dân gian đã thâm nhập mạnh mẽ vào ngôn ngữ văn hoá, trở thành bộ phận nòng cốt của ngôn ngữ văn hoá dân tộc. Các từ ngữ dân gian không chỉ được dùng ở loại văn thấp, không chỉ được dùng để tả cảnh, tả tình nữa mà đã trở thành một trong những phương tiện để tạo ra những luận văn chính trị, triết học xuất sắc như Đường kách mệnh, như Tuyên ngôn độc lập, như Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Chính nhờ học hỏi ngôn ngữ quần chúng, nhờ thấm nhuần vốn văn học dân tộc như ca dao, dân ca, như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm,... mà Tố Hữu đã sáng tạo ra các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Gió lộng, Việt Bắc,..., mà Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan đã đạt được những mốc mới trên con đường phát triển của tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam. Ngày nay, chẳng mấy ai còn dùng những từ như: bằng hữu, bỉ nhân, cố nhân, đại huynh, lữ khách, ngõ hầu, phụng hành, tấu nhạc, tiện thiếp, tiểu đệ v.v...

3. Sự thâm nhập lẫn nhau của từ vựng khẩu ngữ và từ vựng sách vở
Trong khi các từ thuộc khẩu ngữ hàng ngày của nhân dân được sử dụng rộng rãi trên sách báo các loại, từ sách báo chính trị đến sách báo ngoại giao, từ sách báo khoa học đến sách báo văn nghệ, từ sách báo quân sự đến sách báo kinh tế,... các từ của khẩu ngữ được coi là nguồn quan trọng để cấu tạo ra các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật thì chúng ta lại thấy một quá trình ngược lại: sự thâm nhập ngày càng nhiều của các từ vựng sách vở vào khẩu ngữ của quần chúng. Những thuật ngữ chính trị, xã hội thông thường đã trở nên rất quen thuộc với tất cả mọi người: bình đẳng, cách mạng, chính phủ, cộng sản chủ nghĩa, dân chủ, hợp tác xã, làm chủ tập thể, phổ thông đầu phiếu, quản lí, kinh tế, quốc hộc, trung ương, xã hội chủ nghĩa,...

Những thuật ngữ thuộc các lĩnh vực khác nhau như: chiến dịch, chiến lược, chiến thuật, hạt nhân, kế hoạch, mặt trận, nguyên tử, phân phối, tấn công, tiêu dùng,... cũng khá phổ biến. Sở dĩ có tình hình trên là vì tình hình chính trị văn hoá của quần chúng ngày càng được nâng cao. Khoa học, kĩ thuật, sách vở, không còn là của cải riêng của một số người nào đó nữa mà dần dần trở thành vốn quý mà mọi người đều có quyền biết. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Để tiến hành cách mạng, để xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, tất cả mọi người đều cần phải biết đến khoa học, đều có nghĩa vụ phải học khoa học, kĩ thuật.

4. Sự thâm nhập của các từ địa phương vào ngôn ngữ văn học toàn dân và sự phổ biến rộng rãi của ngôn ngữ văn hoá toàn dân
Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt chẳng những là một quá trình làm giàu thêm kho từ ngữ của tiếng Việt mà còn là một quá trình thống nhất từ vựng, tiêu chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt. Từ vựng tiếng Việt ngày càng thống nhất thì lẽ tự nhiên, những từ địa phương sẽ bị gạt bỏ dần dần. Quá trình này diễn ra một cách tự nhiên, bắt đầu bằng ngôn ngữ văn hoá. Những người cầm bút ai cũng muốn tác phẩm của mình được nhiều người đọc, nhiều người hiểu. Vì vậy, họ có ý thức chọn dùng những từ mọi người đều biết, đều hiểu, hạn chế dùng những từ ngữ địa phương chỉ nhân dân một vùng nào đó hiểu được mà thôi. Chính nhờ khuynh hướng đó mà ngôn ngữ văn hoá ngày càng trong sáng, mẫu mực hơn ngôn ngữ thường ngày. So sánh việc dùng từ địa phương trong văn viết trước và sau Cách mạng, chúng ta thấy tỉ lệ giảm đi rất nhiều. Tính trung bình mỗi trang của Trương Vĩnh Kí (trước cách mạng) có hai từ địa phương, còn 4 trang của một tác giả ở miền Nam mới xuất hiện 1 từ địa phương. Hơn nữa, những từ địa phương trong tác phẩm văn học sau này, nói chung, là những từ thường dùng, có tần số sử dụng cao(2). Hiện nay, trình độ hiểu biết của nhân dân về chính trị và văn hoá ngày càng cao, sự giao lưu giữa các vùng được mở rộng, các phương tiện truyền thôn phát triển mạnh, cho nên ngôn ngữ văn hoá ngày càng có điều kiện truyền bá, ăn sâu vào quần chúng.

Trong quá trình phát triển của từ vựng tiếng Việt, rất nhiều từ địa phương đã được thu hút vào vốn từ toàn dân, làm giàu thêm cho ngôn ngữ văn hoá của toàn dân. Đó chính là những từ ngữ chỉ sản vật của địa phương, những từ ngữ nghề nghiệp của riêng từ vựng, chẳng hạn: lúa vào sữa, lúa toát đòng, lợn kéo xác, mạ ngồi, ngô xoáy uốn, tằm ăn rỗi,...

không dùng quá nhiều icon
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom