Dưới đây là bài viết của mình, các bạn xem và sửa chữa giùm mình nhé, mình cảm ơn!
Đề bài
hân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm "chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân
Từ xưa đến nay, việc giữ gìn và tôn vinh nét đẹp của cha ông đã trở thành một truyền thống của những người con đất Việt.Và cũng rất dễ hiểu khi nó trở thành một đề tài len lỏi vào các tác phẩm văn học. Một trong số ít các tác phẩm thành công với đề tài này phải kể đến "Chữ người tử tù" của nhà văn Nguyễn Tuân. Thiên truyện kể về Huấn Cao-một con người trí dũng song toàn. Thông qua đó, Nguyễn Tuân đã tôn vinh một trong những thú vui tao nhã của người xưa:thú chơi chữ.
Để có thể hiểu rõ hơn tác phẩm này, ta không thể không nhắc đến quan niệm nghệ thuật rất riêng của Nguyễn Tuân. Đối với nhà văn, cái đẹp là bất tử. Ông luôn tìm kiếm, săn lùng cái đẹp dù ở bất cứ đề tài gì. Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân cũng có phần khắt khe hơn cả. Đó phải là một vẻ đẹp riêng biệt, không theo khuôn mẫu, mạnh mẽ, dữ dội, góc cạnh. Nhà văn quan niệm :Viết văn đồng nghĩa với sáng tạo, những gì người khác không làm được thì ông sẽ làm rất tốt. Bởi lẽ đó, ông thường tìm đến những đề tài mà người khác thường không tìm đến, hoặc tìm đến nhưng không thành công
"Chữ người từ tù" chính là một trong những tác phẩm như thế. Nhân vật chính trong tác phẩm được lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát-một người nổi tiếng với tài viết chữ mà người đời từng ngợi ca "văn như Siêu Quát vô tiền Hán". Đồng thời, ông cũng là một anh hùng đã cùng nhân dân đứng lên chống lại triều đình phong kiến lúc bấy giờ.
Như trong lời đồn và những băn khoăn của ngục quan:"Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không". Thông qua đây, Nguyễn Tuân đã gián tiếp khẳng định uy phong, khí phách của nhân vật này. Cùng với đó, Huấn Cao xuất hiện với hàng loạt các hành động của một trang anh hùng dũng liệt.Là người cầm đầu đứng lên chống lại triều đình, hành động đầu tiên của Huấn Cao khi vừa bước tới cửa tù là dỗ gông. Một người bước vào tù cùng án chém cận kề mà vẫn khinh mạt, không mảy may nghĩ đến những lời dọa nạt thị uy như Huấn Cao, đích thị là một người có khí phách không dễ gì khuất phục được.Và cái hành động "thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình" cua Huấn Cao, lẽ thường không có gì là lạ. Tiếp đó, Nguyễn Tuân đã bày ra trước mắt người đọc một cảnh tượng thật nghịch lý: Viên quản ngục-người coi giữ ngục tù, nắm trong tay sinh mệnh của kẻ khác-khép nép, ngập ngừng:"Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết, tôi sẽ cố gắng chu tất". Huấn Cao-một người tù đang chờ ngày ra pháp trường - tỏ thái độ khinh miệt đến điều:"-ngươi joir ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".Hơn ai hết, ông hiểu rõ những trò tiểu nhân thị oai có thể sẽ giáng lên đầu mình khi sỉ nhục ngục quan. Cái khinh miệt ấy, cái miệt thị ấy lại càng đậm tô thêm cái nét kiên cường, hiên ngang nơi Huấn Cao. Trong "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, Từ Hải cũng là một người anh hùng
"Đội trời đạp đất ở đời
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai"
nhưng đến khi mắc mưu của Hồ Tôn Hiến thì
" Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn"
Huấn Cao thì khác. Như Phan Bội Châu đã từng nói "Chạy mỏi chân thì hãy ở tù", Huấn Cao vốn coi ngục tù đơn thuần như là nơi nghỉ chân sau những tháng ngày vẫy vùng ngang dọc. Hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là một Huấn Cao với phong thái ung dung, đĩnh đạc, khí phách hiên ngang, bất khuất.
Nói đến Huấn Cao còn là nói đến một con người tài hoa. Mở đầu cho sự xuất hiện của Huấn Cao là lời của Viên quản ngục:"Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?". Dưới thời Hán học đang thịnh hành, thư pháp đã trở thành một nghệ thuật cao quý. Nghệ thuật thư pháp không đơn thuần là sản phẩm của sự khéo tay mà là sản phẩm của sự sáng tạo. Người viết phải vừa thấu hiểu từng con chữ, vừa mang trong mình một cái tâm trong sáng, nó "nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Không khó hiểu khi nét chữ của Huấn Cao trở thành niềm mong ước của bao nhiêu con người. Dưới con mắt của viên quản ngục, nét chữ ấy lại càng giá trị hơn" có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời" Y gần như đem cả tính mạng mình ra cá cược để có được nó. Vì nếu quan trên biết được hành động biệt đãi Huấn Cao, ngục quan ắt sẽ gặp hoạ. Chữ của Huấn Cao không chỉ quý mà còn hiếm nữa. Từ khi xuất thần ngòi bút đến khi sa cơ lỡ vận, Huấn Cao mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân" Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Nét chữ ấy không thể đem ra để mua bán, đổi chác. Nét chữ ấy sinh ra để dành tặng cho những người biết trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao-đồng thời với tài năng-còn mang trong mình một nhân phẩm cao quý. Một người đạt được đến đỉnh cao của nghệ thuật thư pháp, một người biết dụng cái tài, cái đẹp của mình đúng lúc, đúng chỗ ắt là người biết quý trọng, gìn giữ thiên lương của chính mình. Đối với người xưa, quan niệm sống gắn liền với câu nói "chết vinh còn hơn sống nhục" hay"làm trai sống ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông". Còn đối với Huấn Cao, ông mang một quan niệm sống thật đơn giản"sống là để đền đáp lại những tấm lòng". Ngay cả việc đứng lên chống lại triều đình đó chẳng phải cũng là để đền đáp lại tấm lòng của nhân dân hay sao?.Chính vì lẽ đó, nên dù sỉ nhục ngục quan"có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục". Khi nghe tin Huấn Cao sắp phải vào kinh chịu án, viên quản ngục "tái nhợt người đi", thầy thơ lại "hớt hơ hớt hải". Riêng Huấn Cao, cái người đáng phải lo nhất, buồn nhất lại mỉm cười một cách điềm tĩnh. Một lần nữa, Nguyễn Tuân lại thể hiện cái khí phách hiên ngang coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của Huấn Cao. Nhưng trên hết, ta bắt gặp cái lặng người thâm trầm của một người anh hùng. Cái lặng người đó không phải niềm xót xa, tiếc nuối cho sự sống ngắn ngủi sắp kết thúc. Đó là cái lặng người rất Huấn Cao trước cái nghịch lý của cuộc đời, rằng ngay ở ccái chốn " người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc" vẫn tồn tại những tấm lòng biết quý mến cái tài, cái đẹp"Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý đến vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".
Nơi Huấn Cao không chỉ là khí phách, là tài năng, mà còn là một thiên lương rất mực trong sáng. Và cảnh cho chữ ở đoạn cuối thiên truyện chính là nơi hội tụ cả ba vẻ đẹp ấy. Vì sao Huấn Cao lại đồng ý cho chữ? Phải chăng vì ông biết mình sắp lên đoạn đầu đài và đây là cơ hội cuối cùng để phô diễn tài năng? Hay vì ông muốn trả công cho những ngày trong ngục tù được viên quản ngục biệt đãi? Không. Đó là khi người nghệ sĩ tìm thấy một tâm hồn đồng điệu với mình. Và đó cũng là khi, Huấn Cao làm theo lương tâm, làm theo quan niệm sống mà ông luôn luôn hướng tới" sống là để đền đáp lại những tấm lòng". Đồng thời với đó là sự chuyển giao cái đẹp. Thông qua đây, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp làm bất tử hóa nét chữ của Huấn Cao, để nó sống mãi với thời gian.Không phải ngẫu nhiên mà cảnh cho chữ được coi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Lẽ thường tình, thư pháp là một nghệ thuật cao quý. Người ta thương trân trọng tìm đến những nơi thanh tịnh, cao quý mà đặt bút viết những nét chữ. Cái thú vị của thiên truyện này là ở chỗ, Nguyễn Tuân đã đi ngược với thói quen đó. Ông để Huấn Cao viết những nét chữ cuối cùng trong "một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián...không khí khói tỏa như đám chay nhà". Cái tài của Huấn Cao lại càng được tô đậm thêm trong cái sự đối nghịch giữa thiện và ác, giữa cái tối tăm lọc lừa với cái trong sạch, đẹp đẽ. Rồi cái trật tự của xã hội dường như cũng bị đảo lộn. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướn xiềng, đang dậm tô nét chữ.Con người ấy mang một khí phách, một tâm thế hoàn toàn tự do, không hề bận tâm tới những xiềng xích đang trói buộc mình. Ngay cạnh đó là một viên quản ngục khúm núm, nhún nhường, là thầy thơ lại gầy gò, run run bưng chậu mực. Nơi đây, mặc dù là chốn ngục tù tối tăm đầy tội ác, nhưng dường như cái đẹp đã lên ngôi, cái thiện đã chiến thắng. Không chỉ gửi gắm nơi ngục quan những con chữ, kẻ tử tù còn nhắn nhủ y nên"tìm về nhà quê mà ở".Một lần nữa, cái thiên lương của Huấn Cao lại được thể hiện. Nó không chỉ tỏa sáng mà trên hết thảy nó còn làm tỏa sáng cả thiên lương của người khác. Thông qua đây, Nguyễn Tuân cũng gứi tới người đọc một triết lý sống"cái thiện-cái ác không thể cùng chung sống, cùng tồn tại", và câu nói của viên quản ngục kết thúc câu chuyện nay cũng đồng thời khẳng định" giữa cái thiện và cái ác, cái thiện nhất định sẽ chiến thắng.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật độc đáo: Huấn Cao-một khí phách uy vũ bất năng khuất. Huấn Cao-một tai năng được ví"hữu xạ tự thiên hương". Huấn Cao-một thiên lương"nhất sinh đê thủ bái mai hoa". Trong con người của Huấn Cao hội tụ cả ba vẻ đẹp nhân, trí, dũng. Thông qua đó, nhà văn đã bày tỏ sự trân trọng những thú vui tao nhã, thanh cao của người xưa. Có thể khắng định, "Chữ người tử tù" chính là một nén tâm hương mà Nguyễn Tuân cũng như con cháu đời sau gứi tới cha ông mình.