văn học lớp 11

E

eragonmjsakj

:khi (109):Thấy hay thì cảm ơn nha:khi (108):
Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát vớI văn chương “vô tiền Hán”, còn nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và “lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục !
Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:
“Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”
Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội.
“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.
Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng :
“Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.
Quay cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.
Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.
Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
__________________
Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn
 
E

eragonmjsakj

Có bài đọc cho bạn ý là được rùi . Khỏi phải théc méc nhìu . Có giỏi thì giáp bạn ý đi. Xấu ghê!!!
 
N

nguyendichkhanh

Nguyễn Địch Khánh

Nguyễn Địch Khánh
ĐỀ BÀI: Nhạc sĩ S.Gunô có lần nói: “Hồi tôi hai mươi tuổi tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài, hồi tôi ba mươi tuổi tôi đã nói: tôi và Môda, hồi bốn mươi tuổi tôi nói môda và tôi, còn bây giờ tôi chỉ nói Môda”. Em hiểu thế nào về câu nói trên, từ đó rút ra được những điều bổ ích gì cho bản thân.
BÀI LÀM.
Trong cuộc đời ai cũng đã và sẽ phải trải qua thời kì trai trẻ đầy nhiệt huyết và sôi động.Và chắc rằng ai cũng đã có lần từng thỏa mãn,và hãnh diện về mình dù rằng sự thỏa mãn và hãnh diện đó là không lớn.Và chắc hẳn cũng đã có lần tự nhận ra rằng mình thật nhỏ bé. Gunô-một nhạc sĩ, một thiên tài người Pháp cũng vậy ông cũng đã từng thỏa mãn với mình, từng kiêu hãnh tự nhận mình là nhất bởi ông là người tài ba-tài ba thực sự, ông là một thiên tài thế nhưng qua thời gian trưởng thành cuối cùng ông cũng đã phải thừa nhận rằng mình vẫn chưa phải là nhất.Và “Hồi tôi hai mươi tuổi tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài, hồi tôi ba mươi tuổi tôi đã nói: tôi và Môda, hồi tôi bốn mươi tuổi tôi nói: môda và tôi, còn bây giờ tôi chỉ nói Môda” chính là câu nói của gunô thừa nhận một điều rằng thời gian trôi qua và ông- một người luôn tự nhận mình là nhất từng bước bị Môda- huyền thoại âm nhạc người áo đánh bại.
Năm 20 tuổi Gunô một chàng trai trẻ, một thiên tài âm nhạc đã tự nhận mình là người có tài bậc nhất ông nói:“năm tôi hai mươi tuổi tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài” Ta nghe câu nói này vô cùng gần gũi với chuyện Nguyễn Công Trứ tự nhận mình là văn võ song toàn, Gunô thấy không ai có tài bằng mình và không ai có thể so sánh với mình, coi mình là độc tôn, đó là một sự ngộ nhận đầy bồng bột, và nó chứng tỏ rằng ở cái tuổi 20 Gunô vẫn chưa hề nhận thức được thế nào là thế giới bao la, để rồi sau đó, sau 10 năm trời danh vọng và sự nghiệp, Gunô đã phải thừa nhận thêm một người mà ông cho là có tài, đó là Môda. Nhưng có lẽ ở tuổi 30 với đầy nhiệt huyết, sức trẻ và tài năng thì Gunô vẫn cảm thấy rằng mình là số một còn môda vẫn phải đứng sau mình. Ông nói:”tôi và Môda”, có lẽ rằng vào lúc này Môda vẫn chưa thực sự bộc lộ hết tài năng của mình, và Gunô thì quá tài ba-đó là sự thật hiển nhiên. Nhưng phải chấp nhận rằng Môda giờ đã là một thiên tài trong mắt Gunô.
Như Gơt đã từng nói: “một con người làm sao nhận thức được chính mình, đó không phải là công việc của tư duy mà là của thực tiễn, hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình thì ta lập tức hiểu được giá trị của mình”. Đúng như vậy, công việc của Gunô không phải là tư duy xem mình có tài hay không mà đó là công việc của thực tiễn, thực tiễn sẽ nói lên tất cả. Và thêm 10 năm với cuộc đời, với thực tiễn được chứng kiến sự trưởng thành, những bước tiến từng ngày của Môda, Gunô đã một lần nữa phải chấp nhận “núi cao còn có núi cao hơn, sông sâu còn có sông sâu hơn nhiều”, rằng mình là ếch ngồi đáy giếng, rằng *** cuộc mình cũng vẫn chỉ là mình, mình chưa thật sự tài ba bậc nhất như mình đã mưỡng tưởng, và giờ mình đã bị môda bỏ xa, môda đã khẳng định được bản thân, chứng tỏ được tài năng thực thụ của mình.Và đến lúc này gunô đã phải đặt mình ở phía sau: “Môda và tôi”. Môda đã tài ba hơn Gunô. Ta cũng không cần phải băn khoăn gì nhiều về Môda lúc này bởi vì Gunô đã thừa nhận tài năng của môda, thừa nhận thiên tài Môda, thừa nhận Môda hơn mình, thì không có lí gì ta lại phủ nhận điều đó.
.Có lẽ rằng khi ông đến tuổi “bây giờ”thì ông mới thật sự cảm thấy khâm phục tài năng của Môda. “Bây giờ” Gunô đã thụt lùi phía sau Môda một chặng đường khá dài, dài đến mức mà gunô không thể đuổi theo môda được nữa và ông phải thừa nhận rằng chỉ có Môda là bậc nhất, ông nói: “còn bây giờ tôi chỉ nói: Môda”.Giờ thì Gunô đã ở khá xa so với bầu trời vinh quang mà Môda đang trị vì. Gunô đã chấp nhận mình thua Môda, thua đầy thuyết phục, thua mà không thể ca thán.
Mới đầu ta nghĩ rằng khi ở tuổi 20 Gunô là một người kiêu ngạo, thợ kèn khen lấy, không coi ai ra gì, tự đánh giá bản thân mình một cách chủ quan và nhận mình là bậc nhất. Nhưng cũng đâu biết rằng có thể thực ra ông không hề kiêu nghạo một chút nào mà ngược lại đây là cách để ông bộc bạch sự ngưỡng mộ của mình đối với thiên tài Môda- tự nhiên không hề suy tính. Nếu quả thực như vậy thì Môda là một người vô cùng xuất xắc trong cách nói, cách hành văn.. Câu nói trên có lẽ chỉ là một câu nói bình thường, một sự thực, nhưng em nghĩ nó mang đậm tính triết học, tính văn học.Ông so sánh Môda với chính mình, dùng biện pháp đòn bẩy để cho mọi người thấy được cái tài của Môda. Gunô muốn mọi người thấy Môda là số một, Gunô coi trọng Môda, Gunô khâm phục Môda. Đọc song và ngẫm nghĩ kĩ câu nói trên của Gunô em rút ra được rằng đừng nên tự đề cao mình, đừng ngộ nhận rằng mình có tài để rồi thỏa mãn, không coi ai ra gì, và không cố gắng vươn cao hơn để đạt đến sự thành công mĩ mãn tột cùng. Có thể lúc đó mình có tài thực sự nhưng ai biết đâu rằng ngày mai mình sẽ thua kém người ta.Và như vậy thì thật là nhục nhã. Hãy luôn coi mình chỉ là hạt cát nhỏ bé trong sa mạc bao la, và trong cuộc đời này sẽ còn có rất nhiều những cồn cát rộng lớn có thể nhấn chìm mình bất cứ lúc nào. Hãy luôn đặt mình bên dưới tất cả cho dù mình có thật sự cảm thấy mình xứng đáng được đứng trên họ lúc đó nhưng biết đâu một ngày họ sẽ vượt qua mình.
Rất nhiều bạn trẻ cũng đã từng tự tin, tự tin một cách thái quá,dẫn đến kiêu ngạo, coi mình là nhất và dần dần khi thời gian sống, trải nghiệm chứng kiến cuộc đời với những đổi thay khó tưởng, đến một ngày chợt nhận ra rằng trên ta có rất nhiều người còn giỏi dang hơn ta gấp ngàn lần, để rồi ngậm ngùi : “Ôi! Ta thật nhỏ bé”.
Đừng nên cố thể hiện, cố cho mình là nhất để rồi kiêu ngạo, hãnh diện với đời và bất chợt thấy mình thua kém rất nhiều, mà hãy cố gắng ra sức làm tròn bổn phận của mình, để cho bạn bè thấy phục mình như là Gunô phục Môda. Khi đó ta thấy mình thật hạnh phúc và vinh quang. Hạnh phúc thực sự vinh quang thực sự.
Câu nói trên của Gunô thực sự là một bài học cho những ai còn hay kiêu ngạo, hay tự ngộ nhận mình là người tài giỏi. Nó nhắc nhở chúng ta rằng đừng kiêu ngạo để rồi phải ngậm ngùi chấp nhận hiện thực.Hãy biết mình là ai!
.

 
Last edited by a moderator:
M

moonsmile93

Dưới đây là bài viết của mình, các bạn xem và sửa chữa giùm mình nhé, mình cảm ơn!
Đề bài:phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm "chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân
Từ xưa đến nay, việc giữ gìn và tôn vinh nét đẹp của cha ông đã trở thành một truyền thống của những người con đất Việt.Và cũng rất dễ hiểu khi nó trở thành một đề tài len lỏi vào các tác phẩm văn học. Một trong số ít các tác phẩm thành công với đề tài này phải kể đến "Chữ người tử tù" của nhà văn Nguyễn Tuân. Thiên truyện kể về Huấn Cao-một con người trí dũng song toàn. Thông qua đó, Nguyễn Tuân đã tôn vinh một trong những thú vui tao nhã của người xưa:thú chơi chữ.

Để có thể hiểu rõ hơn tác phẩm này, ta không thể không nhắc đến quan niệm nghệ thuật rất riêng của Nguyễn Tuân. Đối với nhà văn, cái đẹp là bất tử. Ông luôn tìm kiếm, săn lùng cái đẹp dù ở bất cứ đề tài gì. Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân cũng có phần khắt khe hơn cả. Đó phải là một vẻ đẹp riêng biệt, không theo khuôn mẫu, mạnh mẽ, dữ dội, góc cạnh. Nhà văn quan niệm :Viết văn đồng nghĩa với sáng tạo, những gì người khác không làm được thì ông sẽ làm rất tốt. Bởi lẽ đó, ông thường tìm đến những đề tài mà người khác thường không tìm đến, hoặc tìm đến nhưng không thành công

"Chữ người từ tù" chính là một trong những tác phẩm như thế. Nhân vật chính trong tác phẩm được lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát-một người nổi tiếng với tài viết chữ mà người đời từng ngợi ca "văn như Siêu Quát vô tiền Hán". Đồng thời, ông cũng là một anh hùng đã cùng nhân dân đứng lên chống lại triều đình phong kiến lúc bấy giờ.

Như trong lời đồn và những băn khoăn của ngục quan:"Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không". Thông qua đây, Nguyễn Tuân đã gián tiếp khẳng định uy phong, khí phách của nhân vật này. Cùng với đó, Huấn Cao xuất hiện với hàng loạt các hành động của một trang anh hùng dũng liệt.Là người cầm đầu đứng lên chống lại triều đình, hành động đầu tiên của Huấn Cao khi vừa bước tới cửa tù là dỗ gông. Một người bước vào tù cùng án chém cận kề mà vẫn khinh mạt, không mảy may nghĩ đến những lời dọa nạt thị uy như Huấn Cao, đích thị là một người có khí phách không dễ gì khuất phục được.Và cái hành động "thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình" cua Huấn Cao, lẽ thường không có gì là lạ. Tiếp đó, Nguyễn Tuân đã bày ra trước mắt người đọc một cảnh tượng thật nghịch lý: Viên quản ngục-người coi giữ ngục tù, nắm trong tay sinh mệnh của kẻ khác-khép nép, ngập ngừng:"Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết, tôi sẽ cố gắng chu tất". Huấn Cao-một người tù đang chờ ngày ra pháp trường - tỏ thái độ khinh miệt đến điều:"-ngươi joir ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".Hơn ai hết, ông hiểu rõ những trò tiểu nhân thị oai có thể sẽ giáng lên đầu mình khi sỉ nhục ngục quan. Cái khinh miệt ấy, cái miệt thị ấy lại càng đậm tô thêm cái nét kiên cường, hiên ngang nơi Huấn Cao. Trong "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, Từ Hải cũng là một người anh hùng
"Đội trời đạp đất ở đời
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai"
nhưng đến khi mắc mưu của Hồ Tôn Hiến thì
" Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn"
Huấn Cao thì khác. Như Phan Bội Châu đã từng nói "Chạy mỏi chân thì hãy ở tù", Huấn Cao vốn coi ngục tù đơn thuần như là nơi nghỉ chân sau những tháng ngày vẫy vùng ngang dọc. Hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là một Huấn Cao với phong thái ung dung, đĩnh đạc, khí phách hiên ngang, bất khuất.

Nói đến Huấn Cao còn là nói đến một con người tài hoa. Mở đầu cho sự xuất hiện của Huấn Cao là lời của Viên quản ngục:"Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?". Dưới thời Hán học đang thịnh hành, thư pháp đã trở thành một nghệ thuật cao quý. Nghệ thuật thư pháp không đơn thuần là sản phẩm của sự khéo tay mà là sản phẩm của sự sáng tạo. Người viết phải vừa thấu hiểu từng con chữ, vừa mang trong mình một cái tâm trong sáng, nó "nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Không khó hiểu khi nét chữ của Huấn Cao trở thành niềm mong ước của bao nhiêu con người. Dưới con mắt của viên quản ngục, nét chữ ấy lại càng giá trị hơn" có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời" Y gần như đem cả tính mạng mình ra cá cược để có được nó. Vì nếu quan trên biết được hành động biệt đãi Huấn Cao, ngục quan ắt sẽ gặp hoạ. Chữ của Huấn Cao không chỉ quý mà còn hiếm nữa. Từ khi xuất thần ngòi bút đến khi sa cơ lỡ vận, Huấn Cao mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân" Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Nét chữ ấy không thể đem ra để mua bán, đổi chác. Nét chữ ấy sinh ra để dành tặng cho những người biết trọng cái tài, cái đẹp.

Huấn Cao-đồng thời với tài năng-còn mang trong mình một nhân phẩm cao quý. Một người đạt được đến đỉnh cao của nghệ thuật thư pháp, một người biết dụng cái tài, cái đẹp của mình đúng lúc, đúng chỗ ắt là người biết quý trọng, gìn giữ thiên lương của chính mình. Đối với người xưa, quan niệm sống gắn liền với câu nói "chết vinh còn hơn sống nhục" hay"làm trai sống ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông". Còn đối với Huấn Cao, ông mang một quan niệm sống thật đơn giản"sống là để đền đáp lại những tấm lòng". Ngay cả việc đứng lên chống lại triều đình đó chẳng phải cũng là để đền đáp lại tấm lòng của nhân dân hay sao?.Chính vì lẽ đó, nên dù sỉ nhục ngục quan"có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục". Khi nghe tin Huấn Cao sắp phải vào kinh chịu án, viên quản ngục "tái nhợt người đi", thầy thơ lại "hớt hơ hớt hải". Riêng Huấn Cao, cái người đáng phải lo nhất, buồn nhất lại mỉm cười một cách điềm tĩnh. Một lần nữa, Nguyễn Tuân lại thể hiện cái khí phách hiên ngang coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của Huấn Cao. Nhưng trên hết, ta bắt gặp cái lặng người thâm trầm của một người anh hùng. Cái lặng người đó không phải niềm xót xa, tiếc nuối cho sự sống ngắn ngủi sắp kết thúc. Đó là cái lặng người rất Huấn Cao trước cái nghịch lý của cuộc đời, rằng ngay ở ccái chốn " người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc" vẫn tồn tại những tấm lòng biết quý mến cái tài, cái đẹp"Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý đến vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".

Nơi Huấn Cao không chỉ là khí phách, là tài năng, mà còn là một thiên lương rất mực trong sáng. Và cảnh cho chữ ở đoạn cuối thiên truyện chính là nơi hội tụ cả ba vẻ đẹp ấy. Vì sao Huấn Cao lại đồng ý cho chữ? Phải chăng vì ông biết mình sắp lên đoạn đầu đài và đây là cơ hội cuối cùng để phô diễn tài năng? Hay vì ông muốn trả công cho những ngày trong ngục tù được viên quản ngục biệt đãi? Không. Đó là khi người nghệ sĩ tìm thấy một tâm hồn đồng điệu với mình. Và đó cũng là khi, Huấn Cao làm theo lương tâm, làm theo quan niệm sống mà ông luôn luôn hướng tới" sống là để đền đáp lại những tấm lòng". Đồng thời với đó là sự chuyển giao cái đẹp. Thông qua đây, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp làm bất tử hóa nét chữ của Huấn Cao, để nó sống mãi với thời gian.Không phải ngẫu nhiên mà cảnh cho chữ được coi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Lẽ thường tình, thư pháp là một nghệ thuật cao quý. Người ta thương trân trọng tìm đến những nơi thanh tịnh, cao quý mà đặt bút viết những nét chữ. Cái thú vị của thiên truyện này là ở chỗ, Nguyễn Tuân đã đi ngược với thói quen đó. Ông để Huấn Cao viết những nét chữ cuối cùng trong "một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián...không khí khói tỏa như đám chay nhà". Cái tài của Huấn Cao lại càng được tô đậm thêm trong cái sự đối nghịch giữa thiện và ác, giữa cái tối tăm lọc lừa với cái trong sạch, đẹp đẽ. Rồi cái trật tự của xã hội dường như cũng bị đảo lộn. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướn xiềng, đang dậm tô nét chữ.Con người ấy mang một khí phách, một tâm thế hoàn toàn tự do, không hề bận tâm tới những xiềng xích đang trói buộc mình. Ngay cạnh đó là một viên quản ngục khúm núm, nhún nhường, là thầy thơ lại gầy gò, run run bưng chậu mực. Nơi đây, mặc dù là chốn ngục tù tối tăm đầy tội ác, nhưng dường như cái đẹp đã lên ngôi, cái thiện đã chiến thắng. Không chỉ gửi gắm nơi ngục quan những con chữ, kẻ tử tù còn nhắn nhủ y nên"tìm về nhà quê mà ở".Một lần nữa, cái thiên lương của Huấn Cao lại được thể hiện. Nó không chỉ tỏa sáng mà trên hết thảy nó còn làm tỏa sáng cả thiên lương của người khác. Thông qua đây, Nguyễn Tuân cũng gứi tới người đọc một triết lý sống"cái thiện-cái ác không thể cùng chung sống, cùng tồn tại", và câu nói của viên quản ngục kết thúc câu chuyện nay cũng đồng thời khẳng định" giữa cái thiện và cái ác, cái thiện nhất định sẽ chiến thắng.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật độc đáo: Huấn Cao-một khí phách uy vũ bất năng khuất. Huấn Cao-một tai năng được ví"hữu xạ tự thiên hương". Huấn Cao-một thiên lương"nhất sinh đê thủ bái mai hoa". Trong con người của Huấn Cao hội tụ cả ba vẻ đẹp nhân, trí, dũng. Thông qua đó, nhà văn đã bày tỏ sự trân trọng những thú vui tao nhã, thanh cao của người xưa. Có thể khắng định, "Chữ người tử tù" chính là một nén tâm hương mà Nguyễn Tuân cũng như con cháu đời sau gứi tới cha ông mình.
 
Top Bottom