lại vừa là một giọng thơ đối thoại – là tiếng nói đối thoại của người mang gông trong tư cách một tội đồ với cái gông tượng trưng cho bạo lực của kẻ cầm quyền. Cái người đang bị bạo lực đẩy xuống dưới đáy cùng vực thẳm đã lên tiếng phủ định bạo lực :
Nhậm giao thùy thị nhậm thùy phi,
Tổng dữ nhân gian quản nhục ky.
(Dù cho ai phải ai trái cũng mặc kệ,
Nói chung đây chỉ là cái máy làm nhục
người đời mà thôi).
Và tác giả tự thấy mình không việc gì phải “nổi giận với bóng” hay “hổ thẹn với chăn” khi phải sống chung với cái vật bất lương đó. Mạch thơ trữ tình đưa ông lên một cảm hứng mới. Ông dứt khoát đòi lại lẽ phải, đòi lại sự trong trắng của chính mình :
Tiện đương tế chúc song hàng tả,
Minh trước Nghiêu Phu “Thiện sự ngâm”.
(Tiện đây nên chẻ mày ra để viết lên đấy mấy dòng,
Viết bài Thiện sự ngâm của nhà thơ Thiệu Ung).
Nội dung bài thơ Thiện sự ngâm (Thơ về việc thiện) của Thiệu Ung đời Tống nói rằng : Người ta làm việc thiện là vì việc thiện nên làm. Với hai câu kết dùng điển tích Thiệu Ung một cách cố ý để che mờ đi ý tưởng táo tợn đòi chẻ cái gông ra làm nhiều mảnh mà ai cũng biết ngay không phải là sáo ngữ, Cao Bá Quát đã dứt khoát khẳng định việc mình chữa quyển thi cho học trò trong kỳ thi ở Huế năm 1841 mà ông được giao chức Sơ khảo là : “vì điều thiện”. Không thể gông trói ông, thậm chí phải chẻ nhỏ cái gông ra vì ông hoàn toàn vô tội. Từ tư thế một người bị kết án, bằng sự chuyển hóa tinh tế các biểu tượng nghệ thuật thơ, ông đã nghiễm nhiên trở thành người lên án.
Còn Bài ca chiếc roi song là một bài trường thiên thất ngôn, tả cái cảnh chịu đựng cực hình của người tù bị nọc ra đánh giữa công đường. Một bài thơ thuộc loại rất hiếm trong thơ cổ, cũng là bài thơ tả thực tài hoa bậc nhất của thơ Cao Bá Quát. Nhà thơ mô tả tỷ mỷ từ đầu đến cuối câu chuyện mà mình đóng vai chính, với nét bút lướt nhanh như những lớp kịch. Từ cái hình ảnh “Người tù xù đầu ngồi trên chiếc giường gãy / Ngọn gió phần phật thổi vào áo quần” (Cơ nhân bồng phát tọa đoạn sàng / Bi phong táp táp xuy y thường), bỗng nghe “Tiếng gọi lanh lảnh của chú lính lệ” (Bộ đinh yết lai thanh lang lang) đến bắt ông lên công đường; rồi cảnh giải đi “Khăn rách xốc xếch, chân bước vội vàng / Lúc vào đến cửa có lính canh ngục kèm hai bên” (Tệ cân bất chỉnh tẩu thả mang / Nhập môn ngục tốt hiệp lưỡng bàng); cảnh người dân kinh kỳ thấy lạ xúm xít lại để xem; cảnh công đường hiện ra oai nghiêm với các quan lớn ngồi trên, quan nhỏ ngồi dưới, và lệnh truyền đem hình cụ bày ra, trong đó “Có cái roi song to, dài đến là dài / Da nó tía, mình nó cứng, uốn nó lại thẳng đờ trở lại” (Cự đằng chi tiên trường thả trường / Phu tử, nhục ngạnh, nhụ như cương); tiếp đấy là cảnh người tù bị nọc ra “nằm duỗi, vẻ sợ hãi xanh xám / Đầu quay nghiêng, mắt lấm lét như con dê hoảng hốt / Chân tay căng thẳng, hai mắt quáng lên” (Cơ nhân yển ngọa hình thương hoàng / Hồi đầu trắc cố như kinh dương / Thủ thân cước trực, lưỡng nhãn hoang). Cần lưu ý là những mô tả ở đây đều xuất phát từ nội tâm nhà thơ / người tù, nên vừa rất thực lại vừa là những ảnh xạ thần tình của tâm trạng chủ thể mà người đứng ngoài không sao tưởng tượng được. Và trận đòn tra tấn bắt đầu. Trong khi tiếng quan thét lên thị uy “như tiếng sét, rung cả rường nhà” (Quan thanh tích lịch tồi đài lương), tiếng nạn nhân bị nỗi sợ làm tắc ứ “miệng không há rộng được / Chỉ khan vã “Oan ! Oan !” và gào trời” (khẩu bất trương / Khổ đạo khuất khuất hào khung thương) thì ngọn roi song “quất nhoang nhoáng như ánh chớp” (Điện hỏa thiểm thiểm giao phi tường) mà uy lực của nó được đặc tả thông qua cái cảm giác đau đớn của người chịu trận – đánh đã đau buốt mà ngừng đánh lại càng đau hơn :
Hân như song giao bác hoại đường,
Bãi như lãnh thủy quán cấp thang.
(Roi giơ lên quất như hai con thuồng luồng quật vào
bờ ao lở,
Roi ngừng lại như nước lạnh xối vào nồi nước sôi).
Người tù hồn vía lên mây nhưng cũng còn hé mắt mong tìm một chỗ bấu víu, thì thật là trớ trêu, cái anh nhìn thấy đầu tiên lại là “Hai cái nọc đứng sừng sững, có dáng ngạo nghễ” (Lưỡng mộc trác lập, thế quật cường). Thêm một sự đe dọa, một mỉa mai cho người đang gặp nạn. Bài ca chiếc roi song là một sự phối hợp tuyệt diệu hình ảnh, âm thanh, câu chữ, tạo nên một không khí đầy náo động, căng thẳng, và những tâm thế đối lập đến cực điểm giữa những con người đang tham gia vào “cuộc chơi” phũ phàng này, trong đó hai hình ảnh đối cực nổi bật nhất là chiếc roi song và người tù. Nhà thơ cũng vận dụng ở đây phép láy chữ với những cặp từ đồng âm và đồng vần, xếp đặt liên tiếp nhau trong cả bài thơ hoặc đặt gián cách một chữ : ảm thảm, táp táp, lang lang, thúc xúc, trường thả trường, thương hoàng, bàng quang, vấn tấn, khuất khuất, tích lịch, thiểm thiểm, thương mang, thùy thùy, đột ngột, kê thê… tạo nên một ngữ điệu miên man, dồn dập và vô cùng bức xúc. Bài thơ gieo vần bằng và độc vận : vần ương, góp thêm ấn tượng vào âm hưởng miên man bức xúc ấy. Nhưng ở gần cuối bài, tác giả bỗng chen vào ba vần trắc, gây nên một phản hưởng. Về nghệ thuật, cú “dội trở lại” đó nói lên điều gì ? Chính là một dụng ý của người viết, báo hiệu động thái chấm dứt dòng tự sự để bắt đầu chuyển sang độc thoại trữ tình của nhà thơ – độc thoại mà cũng là phản tỉnh : sau khi trận đòn chấm dứt, tù nhân được thả ra, “Roi song rủ xuống, thôi không hung hăng như trước nữa” (Đằng tiên thùy thùy khí bất dương), nhưng “con người” trong người tù thì gượng đứng dậy và tìm một chỗ tựa tinh thần để không gục ngã. Chỉ có thể quay nhìn vào chính mình, tự khẳng định lại giá trị của mình chứ không còn cách nào khác :
Ta tai đằng tiên !
Nhĩ bất kiến :
Đức Giang chi dương,
Nguyệt Hằng chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu chi tương vương !
Cẩu phất khí vu triết tượng,
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương,
Nhi hà tiễn phạt chi đương ?
(Này này roi song !
Mày có thấy :
Ở bờ Nam Đức Giang,
Trên đỉnh núi Nguyệt Hằng;
Trên đó có cây tùng cây bách đang chết dở,
Giữa trời đông rét mướt mà vẫn đứng hiên
ngang.
Ví phỏng có người thợ giỏi biết dùng không bỏ nó,
Thì sá chi những loài bồ kết chướng não tầm thường !
Vậy mà nỡ nào còn đốn chặt cho đang ?)6
Đức Giang và Nguyệt Hằng là những địa danh ở quê hương Cao Bá Quát. Rõ ràng, chỉ một câu hỏi cuối cùng của bài thơ đã có giá trị tẩy rửa và hoàn nguyên lại tư thế cứng cỏi của nhà thơ Cao Bá Quát trong chiếc áo người tù.
Thơ tù của Cao Bá Quát đáng cho ta quan tâm vì đó là “hợp lưu” của nhiều giọng điệu : trữ tình có, tự sự có, bi thiết phẫn nộ đều có. Tác giả biết đặt mình như một đối tượng để quan sát thấu đáo từ bên ngoài rồi mới nhập thân trở lại, bổ sung cho cái nhìn từ bên trong, nên cái nhìn bên trong là cái nhìn thẳm sâu, nhìn vào chỗ khuất khúc nhất của cõi lòng tác giả. Ông cũng biết vạch chỗ hèn yếu của mình khi mình đã trót sa chân xuống địa ngục, bị hạ nhục, nói như Nguyễn Du : “Thân lươn bao quản lấm đầu”. Nhưng điều quan trọng hơn là cuối cùng ông đã biết cưỡng lại, trong muôn nghìn khốn khó vẫn tìm cách đoạt trở về cái nhân phẩm vốn có của mình. Việc đó hoàn toàn không dễ. Ý nghĩa thẩm mỹ đột xuất của những vần thơ này của ông là cái khả năng thanh lọc kỳ diệu để không hạ thấp giá trị của hình tượng trữ tình mà còn đẩy nó lên cao hơn. Mặt khác, những vần thơ đó đã đánh thức lương tri của người đọc, bắt người đọc phải hòa nhập vào thái độ không chịu khuất phục hoàn cảnh của chủ thể. Bằng tiếng nói nghệ thuật, con người “dưới đáy” ở đây đã lấy lại sự thiện lương cho mình, sự tự do và vị trí tinh thần cao quý trong tâm thức độc giả cùng thời và đương đại.