Văn [ Văn 9]Phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương

  • Thread starter hoangthinhanhuyen
  • Ngày gửi
  • Replies 17
  • Views 279,342

H

hoangthinhanhuyen

Last edited by a moderator:
N

nhungpro_196

Mình thấy trong topic có rất nhiều bài viết về chủ đề này rôi, bạn cố gắng tìm một chút nhé!

http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-41075.html

http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-90266.html

http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-39090.html

http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-120825.html

http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-88332.html
.....

Tư liệu bạn có thể tìm thêm trên google.

Trong bài viết, bạn cần làm sáng tỏ những ý sau:

- "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệch cũng là lời chung"( Nguyễn Du).
Vũ Ngương là tiêu biểu cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nàng "tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp" nhưng không được hưởng những hạnh phúc mà mình đáng được nhận. Nang bị đối xử vô cũng bất công, bị chà đạp, không được một lời thanh minh, không một lần được lên tiếng minh oan. Cả cuộc đời một con người lại phụ thuộc vào lời nói vu vơ của mọt đứa trẻ. Bị dồn vào đường cùng, nàng chỉ còn biết tìm đến thần sông để chứng minh tấm lòng trinh bạch.
- Từ phân tích chi tiết, đến tổng quát về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến mục nát...

Có thể liên hệ thêm một số bài thơ ( "Bánh trôi nước" chẳng hạn), nhân vật Thị Kính, Thúy Kiều....
 
Last edited by a moderator:
L

lykem_1997

Nhà thơ Huy Cận từng viết :



" Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ "



Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã đc đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:

" Đau đớn thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung "

Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng " Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi ! ", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong " Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm " Truyện Kiều " của Nguyễn Du và " Chuyện người con gái Nam Xương " của Nguyễn Dữ.



Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.

Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương ( " Chuyện người con gái Nam Xương " ).



Tục ngữ có câu " Gái có công thì chông chẳng phụ " thế nhưng công lao của Vũ Nương chắng những không được biết đến mà chính nàg còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.



Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du.

Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều



Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:



" Thân em như hạt mưa sa

Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài "



Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn . Với chế độ nam quyền : " Trọng nam khinh nữ " , người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buồng bởi những lễ giáo fong kiến khắc nghiệt như đạo " tam tòng " , hay các quan niệm lạc hậu như " nữ nhân ngoại tộc "… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.

Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn ngơi ngớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.


Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói " Hồng nhan thì bạc phận " nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình dẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.



Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòg người dọc.

Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.

Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt- đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.



Viết " Chuyện người con gái Nam Xương " và " Truyện Kiều ", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.
Bạn có thể tham khảo dàn bài trên để viết bài cho mình ngoài ra bạn cũng có thể liên hệ thân phận người phụ Việt Nam xưa trong xã hội phong kiên qua các bài thơ như Tự Tình của Hồ Xuân Hương , Thương Vợ của Trần Tế Xương , Bánh Trôi Nước của Hồ Xuân Hương ...hoặc các tác phẩm văn học mà bạn đã học qua rồi. Bạn vào thêm link này tham khảo về phụ nữ Việt Nam xưa
 
D

demiluv9

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kí song được tôn vinh " thiên cổ kì bút " thì cho đến này chỉ có 1 Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ . Và Trong đó đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương đặc sắc nhất : đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa
Truyền Kì Mạn Lục là lọai văn chuyên gi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền . Cho nên trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian . Hẳn không mấy ai không biết đến 2 bài thơ viếng thăm nàng vũ thị trong hồng đức quốc âm thi tập . 2 bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ chàng Trương là có thật . Đã được dân gian lưu truyền . Nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản : biển chép lại cho đúng 1 chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trước đó mà còn phải nhào nặn lại câu chuyện làm cho nó gần gũi với người đọc , mang dấu ấn của thời đại mình
Truyện mở đầu bằng dòng chữ " Vũ Thị Thiết , người con gái quê ở Nam Xương ..." Tên tuổi , quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng như thế Chứ không giống như những nhân vật khác : Chàng họ Trương , ông họ Phan . Thật lạ! . Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên , danh tính để lưu truyền cho hậu thế . Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là 1 người đàn bà bình thường , thuộc giới nghèo hèn " vốn con kẻ khó " , dung mạo thì không có gì đặc biệt . Vậy mà nàng đã là 1 nhân vật lưu truyền nơi hậu thế . Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội . Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc trong tâm trí ông . Ông quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng văn chương trong đội ngữ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa
Phải Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời 1 mẫu người phụ nữ lí tưởng , tuy không phải là giai nhân những lại hội tụ những đức tính phẩm chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết! " tính tình thùy mị nết na lại thêm tư Dung tốt đẹp " Tuy tác giả đã nói rằng 2 yếu tố bên trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan . chẳng khác nào Kiều xưa kia . Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng . Chữ dung đã thua chữ tài . Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn truyện sẽ không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngòai của nàng ta nữa . >>> Vũ Nương đã chiếm được vị trí trong lòng chúng ta không phải là do tư dung mà do phẩm hạnh . Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ . Phẩm chất Vũ Nương là về gia định . Từ khi về nhà chông Vũ Nương luôn tỏ ra là 1 người con dâu hiểu thảo , đảm đang , hay làm , biết tình chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ chồng thất hòa , rồi còn lo lắng thuốc than và ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa Vũ Nương đã làm tất cả để giữ gìn , vun vén cho hạnh phúc của gia đình Thật là 1 con người tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở xã hội xưa .
Trong xã hội xưa vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp hèn nhất . Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để đày đọa , hay kiếm đứa cháu nối dõi tông đường . Cho nên mẹ chồng và con dâu thường thất hòa , không dễ hòa thuận .Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này tô đậm phẩm giá của mình . Những lời khen này càng trở nên ý nghĩa hơn , có giá trị hơn gấp bội " Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được . Sau này , trời xét lòng thành , ban cho phúc đức , giống dòng tươi tốt , con cháu đông đàn , xanh kia quyết chẳng phụ con , cũng như con đã chẳng phụ mẹ "
Đúng là như thế . Vũ Nương thật là 1 người con gái tài sắc vẹn tọan . sống trên đời không để phụ ai , luôn đối xử ân cần với mọi người . vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ . Tai họa bỗng chốc ập đến . Thật đột ngột! Thật nhanh chóng ! Đến khó tin kì lạ . Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những lời nói thiết tha đẫm lệ : " Nhìn trăng soi thành cũ , lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa , trông liễu rũ bãi hoang , lại thổn thức tâm tình thương người đất khách ! . Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng " Mới ngày nào cuộc tiễn biết đầy vương vấn nhơ nhung" Ngước mắt cảnh vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san ! " Những câu viết không vưt khỏi ước lê văn chương 1 thuở nhưng lại có sức lay động lòng người lạ thường ! . Vì những tình cảm ấy rất chân thành . Vậy mà trời đã phụ lòng người chỉ " qua năm sau " thôi tất cả đều tan nát . Thay cho Trang , cho Liễu , cho " cánh hồng bay bổng " và mối tình muôn dặm quan san " chỉ còn là nỗi nghi ngờ , những lời máng nhiếc đánh đập đến thậm tệ . Công lao nuôi con dưỡng mẹ , làm tròn bổn phận con dâu đều đổ xuống sông xuông biển , tới mức " không còn có thế lại lên núi Vọng Phu nữa " Nhưng đáng buồn thay ! Tai họa này chỉ do 1 lí do không đáng nói ! . Do cái bóng ! . Vì nhớ chồng , con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản . Và lòng nàng cũng xem nó là chồng . Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là sự thật . Và cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi Mẹ Đản ngôi cũng ngồi . Và khi qua tai Trương Sinh thì những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật . Cái bóng thành người . Hại cho đời người con gái tài sắc
Chắc hẳn trong các tác phẩm văn học , Có được sự sáng tào tài tình tinh sao như chi tiết về chiếc bóng oan nghiệt này sẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay 1 sự song trùng thật kì ảo thật đáng ngạc nhiên Bóng dần biến thành người . Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư , cái giả chập chờn trong cái thật . Không phải là người vô cũng thiết tha với hạnh phúc của 1 gia đình được sum vầy , đoan tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ ra trờ chơi này . Nào ngờ chính nó đã làm tan nát đời nàng . Khi trở cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha . Nhưng hoa ra chính vì thế mà nàng đã mất chông , Đản đã mất mẹ . Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chờ về . Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa đến như vậy . Đã ém ngẹm lại cái chi tiết giật gân ấy . Rồi búng nén ra ở 1 vị trí thích hợp đã gây ra bão giông , khuấy lên sóng gió . Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh khỏi nổ bùng. " Thú vui nghi gia nghi thật, hạnh phúc duy nhất , niềm mong ước duy nhất của 1 đời Vũ Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ .Bình đã rơi , trâm đã gãy , liễu đã tàn trước gió , sen đã rũ trong ao , người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình
Nàng đã gieo mình xuống sông Hòang Giang tự vẫn . Và người đời sẽ lưu truyền thêm 1 tấm bi kịch về số phận người phụ nữ . Tấm bi kich về cái đẹp bị chà nát phũ phàng Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ , sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà kyhắc dung túng cho sự độc ác hủ bại . Nàng đã gặp 1 người chồng tuy là con nha hào phú m song ít học lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng . Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh đã dồn nàng đến bước đường cùng . Giá như Trương Sinh bình tĩnh tìm hiểu 1 chút thôi thì tấm bi kịch chết người kia sẽ không thể xảy ra . Nhưng đó chỉ là giá như thôi vì Nguyễn Dũ đã đặt dấu chấm than cho mọi sự đã rồi
 
Q

queanhbvp

cảm ơn demiluv9 nha. tối nay mình sẽ thức suốt đêm để viết bài tập làm văn số 6 này nè. Hi vọng với sự giúp đỡ từ bài viết của demiluv9 thì bài làm của mình sẽ có kết quả tốt. Nếu có kết quả tốt thật thì mình sẽ poss lên cho mọi người tham khảo nhé!!! Cảm ơn demiluv9 nhiều nhé...
 
  • Like
Reactions: trang 123321
K

kieutrang97

Nhà thơ Huy Cận từng viết :



" Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ "



Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã đc đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:

" Đau đớn thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung "

Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng " Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi ! ", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong " Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm " Truyện Kiều " của Nguyễn Du và " Chuyện người con gái Nam Xương " của Nguyễn Dữ.



Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.

Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương ( " Chuyện người con gái Nam Xương " ).



Tục ngữ có câu " Gái có công thì chông chẳng phụ " thế nhưng công lao của Vũ Nương chắng những không được biết đến mà chính nàg còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.



Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du.

Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều



Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:



" Thân em như hạt mưa sa

Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài "



Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn . Với chế độ nam quyền : " Trọng nam khinh nữ " , người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buồng bởi những lễ giáo fong kiến khắc nghiệt như đạo " tam tòng " , hay các quan niệm lạc hậu như " nữ nhân ngoại tộc "… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.

Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn ngơi ngớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.


Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói " Hồng nhan thì bạc phận " nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình dẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.



Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòg người dọc.

Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.

Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt- đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.



Viết " Chuyện người con gái Nam Xương " và " Truyện Kiều ", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.
Bạn có thể tham khảo dàn bài trên để viết bài cho mình ngoài ra bạn cũng có thể liên hệ thân phận người phụ Việt Nam xưa trong xã hội phong kiên qua các bài thơ như Tự Tình của Hồ Xuân Hương , Thương Vợ của Trần Tế Xương , Bánh Trôi Nước của Hồ Xuân Hương ...hoặc các tác phẩm văn học mà bạn đã học qua rồi. Bạn vào thêm link này tham khảo về phụ nữ Việt Nam xưa
mình nghĩ nên bám sát vào đề một chút
đề là qua chuyện người con gái nam xương thì phải phân tích vũ nươg kĩ hơn chứ
sau đó chỉ liên hệ tới các tác phẩm khác(tích hợp) thì đảm bảo sẽ được điểm cao bạn ạ:)
 
T

temihuong

ukm bài này mình lm hơn7 trang cơ...
up hết lên mỏi tay lắm nên mình chỉ up dàn ý sơ lược thôi nha!!

*Kiến thức chung :
#Cảm hứng nhân đạo
- Thương xót
- Yêu quý
- Lên án, tố cáo, vô nhân đạo
- Khát khao hướng tới cái đẹp
#Nguyến Dữ
- Thời đại: XVI -> nội chiến Lê >< Mạc
- Trí thức pk : tư tưởng vì dân chủ
- Sáng tác 1 tập truyện : Truyèn kì mạn lục
# Nghệ thuật
- Dựa vào cốt truyện dân gian ( thần, trời, phât, tiên ,thần ,thánh, ma, quỷ )
......
#Mục đích
- Phản ánh hiện thực, đời thực.
- Số phận con người (người phụ nữ)
=> tự lập => nhân đạo và có tính hiện thực xh.

Dàn bài sơ lược
MB : Giới thiệu tg,tp
Nêu nd chính -> Giới thiệu nv Vũ Nương
TB : Làm rõ các luận điểm sau :
1 : Vũ Nương - nv điểm hình cho bi kịch của người phụ nữ dưới thời pk loạn lạc.
a) Bi kịch của số phận tình duyên
- Nhà nghèo lấy Trương Sinh ít học
VN = nết na, thùy mị,xinh đẹp
TS = thô tục, cục cằn
- Thay chồng chăm sóc mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
( Đừng pt sâu vào ý " thay chồng... " mà chỉ nêu vắn tắn thôi)
b) Nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa
- Nếu chiến tranh không xảy ra -> Trương Sinh không bị bănts đi lính -> Cảnh gđ êm ấm.
- Hiện thực : Trương Sinh đi lính
-> ,mẹ xa con, con xa b,vợ xa chồng tình duyên xa cách -> gánh nặng gđ
=>- vất vả, gian truân, cực nhọc
- nhớ chồng
- mẹ già, ốm yếu
c) Nạn nhân của thói xấu xa, ích kỷ, ghen tuông, nhỏ nhen
- Do xa cách : con không biết mặt cha, cha không biết mặt con
-> bi kịch gđ do không hiểu biết => chồng nghi oan cho vợ
*pt hình ảnh cái bóng
cái bóng "cha" <- hai mẹ con hiểu với nhau
Trương Sinh về : -không hiểu sinh hoạt, chi tiết cái bóng
- không hiểu ý nghĩa cái bóng
-> nghe trẻ con : "cái bóng" = cha Đản
=>nghi ngờ vợ, không nghe vợ lí giải, không kể rõ nguyên nhân, không nghe hàng xóm giải thích,..
=> định kiến -> kết luận vợ ngoại tình
* tóm lại có 2 nguyen nhân:
+ KHách quan : Chiến tranh pk đã chia rẽ ra đình khiến vợ chồng xa cách -> hiểu lầm ngiêm trọng.
Vũ Nương không thể tự minh oan cho mình ->tự vấn
+ Chủ quan : Do Trương Sinh ít học nên không hiểu biết -> lúc nào cũng cho mình đúng -> xô đẩy, chèn ép Vũ Nương.
Do con nhỏ : vô tình, ngây thơ, hồn nhiên không hiểu rõ chuyện.
2 : Vũ Nương điển hình cho phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ.
a) Trước khi làm vợ Trương Sinh
Vũ Thị Khiết : là 1 cô gái bình dân, có nhan sắc, phẩm chất thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. -> Là hiện thân cho cái đpẹ lý tưởng về người phụ nữ Việt Nam
b) Một ngưòi con dâu hiếu thảo
- Thay chồng nuôi dưỡng mẹ chồng, chăm sóc tận tình,..
- lo chữa chạy
- Lo mai táng như mẹ đẻ
=> Kiểu mẫu của ngưòi con dâu với những đức tính, phẩm hạnh đẹp đẽ, đáng trân trọng
c) Một người mẹ hết lòng vì con
- Nuôi dạy con -> vất vả, cực nhọc
- Vì con gánh vác thêm việc của chồng
+ H/a cái bóng : Thực chát là có 2 mẹ con nhưng VN đã " tưởng tượng" ra bóng của mình là cha Đản(tình yêu và ước mơ)
-> Để đứa con được sống trong tình yêu thương bao bọc của cả cha và mẹ.
d) 1 người vợ đảm đang, linh hoạt, tháo vác, hết mực chung thủy.
+ Người vợ đảm đang
- Thay chồng nuôi dạy con
- Thay chồng phụ dưỡng mẹ già
+ Bị mắc oan
- Bị chồng kết tội ->Sự mỉa mai chua xót cay đắng phũ phàng
=> Trãm mình xuống sông để tựu minh oạn.
* Pt lời thề trước khi chết.
"..." -> Ý thức bảo vệ phẩm giá của mình
+ Trở thành mĩ nữ dưới thủy cung, sống sung sướng, nhưng luon nhiws về chồng con, gia đình
* pt lời nói cuối cùng khi được gải oan
"..." -> Đức hạnh, sau nặng tình nghĩa
Tấm lòng bao dung, vị tha, độ lượng.
3 : Nghệ thuật xây dựng nv
...
KB : Khẳng định lại vẻ đẹp của VN
Liên hệ bản thân ( thân phận ng` phụ nữ hiện nay )

P/s : cái này chỉ tương đối thôi, không dc đầy đủ hẳn đâu. Pn phải kết hợp với bài giảng của cô(thầy)giáo và của chình bản than nữa... Good luck !
 
H

hieupro9x1203

Xã hội Việt Nam thế kỉ XVI kéo dài cuộc chiến tranh phe phái, mâu thuẫn đã gây nên bao cảnh mịt mù,đau thương .,các nhà văn nhân đạo đều xót xa , trân trọng và tập trung viết về họ- người phụ nữ . Có rất nhiều tác phẩm được viết về đề tài này như là truyện Kiều của Nguyễn Du hay “ chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đó đều là những tác phẩm khiến người đọc phải não nùng , búc xúc mỗi khi giở lại. Nguyễn Du đã từng thống thiết kêu lên:

“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Có lẽ đây là một lời nhận xét rất đúng về thân phận bèo bạt của những người phụ nữ xưa.Trong chuyện truyền kì mạn lục “ chuyện người con gái Nam Xương “ của Nguyễn Dữ thì “ Vũ Nương” hiện ra là 1 cô gái có “ tư dung tốt đẹp”. Và nàng cũng được xếp là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy rẫy những bất công đối với người phụ nữ.Tuy Trương sinh là một người khô khan , lạnh lùng , đa nghi mà lại ít học nhưng Vũ Nương luôn gìn giừ , ăn nói có chuẩn mực , chưa để vợ chồng tiếng to tiếng nhỏ với nhau bao giờ. Nàng lấy Trương Sinh chẳng được bao lâu thì cuộc sống 2 vợ chồng bị chia cắt. Trương Sinh phải đi lính. Không lâu sau khi Trương Sinh đi thì mẹ chàng bị bệnh và mất. Vũ Nương quả là một người phụ nữ tốt. Nàng chăm sóc và mai táng mẹ chồng hết sức là chu đáo , như một đứa con gái đối xử với mẹ để cùa mình. Thời gian thấm thoát trôi đi., Trương Sinh đi lính đã trở về và đứa con của chàng lúc đó đã biết nói. Tin lời của 1 đứa trẻ ngây ngô mà Trương Sinh đã đem lòng nghi oan cho Vũ Nương. Chàng bảo thủ , khăng khăng , nhiếc mắng và đánh đuổi Vũ Nương 1 cách thậm tệ. Bỏ ngoài tai những lời khuyên ngăn của dân làng, không thèm nghe những lời giải thích của Vũ Nương, Trương sinh Với cái tính ích kỉ, sự ghen tuông quá đỗi đã đẩy Vũ Nương đến ngõ cụt. Nàng phải lấy cái chết để giữ trong trắng cho bản thân mình . Nhưng cái chết đó không hề làm lương tâm Trương Sinh day dứt. Thật quá bất công. Với chế độ nam quyền thối nát , độc đoán , nó đã làm cho phụ nữ lúc bấy giờ phải chịu rất nhiều những oan trái ,tủi nhục không đáng có.
Không những Vũ Nương mà còn có rất nhiều người phụ nữ phải chịu những đau đớn đó. . “Phận đàn bà” trong xã hội ấy là “ đau đớn” , là “ bạc mệnh” , là tủi nhục không kể xiết. Như là Vương Thúy Kiều trong “truyện Kiều”-tiếng kêu thương thống thiết , ai oán , não nùng của đại thi hào dân tộc “ Nguyễn Du”. Số phận của nàng còn lênh đênh hơn nhiều Vũ Nương . Lần này , dưới chế độ đồng tiền hôi tanh đen bạc. Nó đã tạo ra 15 năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp . Chỉ vì tiền mà bọn sai nha đã gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều.Để có tiền cứu cha và em trai của mình , nàng đã quết định bán thân cho Mã Giám Sinh – một tên gian ác buôn thịt bán người. Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong . đo đếm , cò ke, ngã giá... Và từ tay Mà Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà , mụ chủ nổi tiếng của thanh lâu. Là một người con gái xinh đẹp , tài năng, và đã sinh trưởng trong 1 gia đình trung lưu, lương thiện gia giáo , dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà đã bày muốn thuê Sở khanh lừa nàng , buộc nàng trở thành 1 cô gái lầu xanh thực thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục .Đau đớn thay !! Từ một cô gái trong trắng , đức hạnh, nàng đã trở thành 1 món đồ chơi thú vị cho bọn khách chơi.

Số phận trái ngang của Kiều không chỉ dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh , bèo dạt , mây trôi và lưu lạc 15 năm trời , đã chịu bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu .

Vũ Nương và Thúy Kiều thật đáng thương !Họ dường như đại diện cho tầng lớp phụ nữ ngày xưa . Họ không được hưởng bất cứ một thứ quyền lợi, không được hưởng một chút tự do . Thật bất công! Những hủ tục phong kiến thối nát đã tạo nên khổ đau cho người phụ nữ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của xã hội vô lí đó.Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ thì luôn luôn đáng ca ngợi, đáng trân trọng và nâng niu.
 
T

tipmoon

phân tích vẻ đẹp và số phận đày bi kịch của người phụ nữ qua tác phẩm chuyện người con gái nam xương và qua các đoạn trích truyện kiều
 
A

anhnd1102

phân tích vẻ đẹp và số phận đày bi kịch của người phụ nữ qua tác phẩm chuyện người con gái nam xương và qua các đoạn trích truyện kiều

Thời đại phong kien trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hương và phải chịu đựng nhiều nhất chính là người phụ nữ. thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đến mọi người chung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua các tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thươ`ng là những người phụ nữ xinh đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.Trong tác phẩm " Bánh trôi nước" của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hiện lên hình ảnh người con gái "vừa trắng lại vừa tròn", một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn, tròn trịa. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, dân dã, không chăm chút mà mộc mạc, tự nhiên nhưng không kém phần duyên dáng với làn da trắng mịn màng. Đấy chính là vẻ đẹp của người con gái lao động hay lam hay làm, đầy mạnh mẽ chốn thôn quê. Ta cũng bắt gặp người phụ nữ như thế xuất hiện trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. Vũ Thị Thiết cũng giống như cô gái trong "Bánh tôi nước", là một người phụ nữ tư dung tốt đẹp, chăm chỉ siêng năng,... khiến Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra trăm lạng vàng rước nàng về làm dâu.

Từ những cô gái quê bản chất đến tiêu thư đài các con của viên ngoại "gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung" đều mang vẻ đẹp thật đáng yêu, đáng quý. Như Thúy Vân và Thúy Kiều trong tác phẩm lớn của đại thi hào Nguyễn Du "Truyện Kiều", là hai tiểu thư cành vàng lá ngọc, thông minh xinh đẹp "mai cốt cách, tuyết tinh thần'. Tuy mỗi người một vẻ nhưng ai cũng vô cùng xinh đẹp, dáng vẻ thanh thoát, yêu kiều như cành mai, còn tâm hồn lại trắng trong như băng tuyết, thanh cao, kiều diễm và quý phái...

Những người phụ nữ dẹp là thế, vậy mà đáng tiêc thay họ lại sống trong một xả hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chén ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ "hồng nhan bạc phận". Đớn đau thay số phận của nàng Vũ Nương! Chỉ vì muốn con vui, muốn bớt buồn,giải khuây khi sống cô đon vò võ nuôi con nên nàng đã lấy cái bóng, nói với con đó là cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ, chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi nhục, bị chồng nghi oan mà phải trầm mình xuống sông tự vẫn! với nàng, để minh oan, không còn cách nào khác nữa. Nàng đã cùng đường mất rồi! Giá như cái xã hội này có một chút công bằng, để cho lời nói của người phụ nữ có giá trị thì chắc chuyện đáng tiếc này đã không xảy ra. nàng không phải chịu uất ức, không phải lấy nước sông để rửa trôi nôõinhơ nhục mà chồng nàng áp đặt.
(Các) nguồn
Vâng, số phận người phụ nữ thời xưa phải chịu bao nhiêu oan khuất, bất hạnh. Bị vu oan, bị nghi ngờ mà không thể giãi bày, không thể minh oan cho bản thân. Số phận của họ ở thế bị động, phải phụ thuộc vào người khác - những gã đàn ông chỉ lấy phụ nữ làm thứ mua vui, tiêu khiển. Họ không làm chủ đựoc số phận của chính họ:

"Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày"

"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"

Những câu ca dao than thân của người phụ nữ với cụm từ bắt đầu quen thuộc "Thân em...". Số phận người phụ nữ, lúc thì như "hạt mưa sa", lúc thi như "tấm lụa đào"...Dù được dân gian ví với điều gì, thì người phụ nữ cũng đều chung một số phận đau khổ gian nan. Họ không biết sẽ sống ra sao, sẽ bị dòng đời đưa đẩy trôi nổi đến phương trời nào? Sẽ sống sung sướng nơi "đài các" hay lại làm lụng vất vả nơi "ruộng cày"? Đối với họ, quãng đời phía trước vô cùng mịt mù, chẳng biết được điều gì sắp xảy đến, sẽ "vào tay ai"...Có khi lấy phải người chồng vô dụng, người phụ nữ yếu đuối sẽ phải chịu nhiều cực khổ

Trong văn học trung đại Việt Nam khi viết về người phụ nữ, một mặt vẫn có sự kế thừa tư tưởng của văn học dân gian, song mặt khác, “Hồng nhan bạc phận” cũng được xem là tư tưởng chủ đạo của các tác giả. Nàng Vũ Nương hiếu thảo, đảm đang, chung thuỷ thì bị ngờ oan là ngoại tình, đến nỗi phải lấy cái chết để minh oan - mà khi chết đi rồi trong lòng vẫn mang nặng nỗi oan uổng đó (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ). Người cung nữ xinh đẹp, tài hoa, khát khao hạnh phúc thì bị nhà vua bỏ rơi, sống cô đơn, mòn mỏi, lạnh lẽo nơi cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân trong cung điện thâm u (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều). Người phụ nữ chỉ có một khát vọng rất bình thường là được chung sống cùng với người chồng thân yêu, song lại rơi vào cảnh đau đớn “tử biệt sinh li”, đằng đẵng chờ đợi không biết có ngày gặp lại. (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn). Nàng Kiều của Nguyễn Du xinh đẹp tài hoa là thế, nhưng lại bị dập vùi trong cảnh "Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần", liên tiếp bị đầy đọa cả về thể xác lẫn tinh thần để rồi phải thốt lên (thực tế là sự đầu hàng hoàn cảnh) rằng: "Thân lươn bao quản lấm đầu/ Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!". Đây không chỉ là bi kịch của riêng nàng Kiều, mà còn là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Mặt khác văn học trung đại Việt Nam, bước đầu đã phản ánh được quan niệm về con người cá nhân trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ trong giai đoạn này cũng thể hiện sự phản kháng, sự tố cáo xã hội cũ, nêu lên nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm chống đối lại quan điểm của xã hội phong kiến (tiêu biểu hơn cả là thơ Hồ Xuân Hương). Đặc biệt văn học đã chú ý khám phá nội tâm nhân vật. Các tác giả (Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương..) khi mô tả người phụ nữ, thường để cho nhân vật bộc bạch trực tiếp những nỗi đau khổ, những niềm riêng tư (sự tự ý thức về mình): "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hoặc bộc lộ những phản ứng: "Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung"... (Hồ Xuân Hương). Có thể khẳng định rằng cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng, hai nỗi niềm thường gặp nhất ở các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam.
 
P

phungmykute_98

1. Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Dữ, tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và nhân vật Vũ Nương:

- Nguyễn Dữ là tác giả nổi tiếng ở thế kỷ XVI, học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời.

- Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ một truyện dân gian, là một trong số 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục - một kiệt tác văn chương cổ, từng được ca ngợi là “thiên cổ kỳ bút”.

- Vũ Nương là nhân vật chính của truyện. Đây là một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh nhưng phải chịu một số phận bi thảm.

2. Trình bày cảm nhận về phẩm chất và số phận nhân vật Vũ Nương:

a. Là người có phẩm chất tốt đẹp:

- Ngay từ đầu đã được giới thiệu “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.

- Là vợ đảm đang, biết giữ gìn khuôn phép, một lòng một dạ chung thủy với chồng (thể hiện trong những cư xử khéo léo để gia đình không lâm vào cảnh thất hòa, dù người chống có tính đa nghi; trong lời dặn dò ân tình, đằm thắm khi tiễn chồng đi lính; chung thủy chờ chồng “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”).

- Là một người mẹ hiền, dâu thảo: vừa một mình nuôi dạy con thơ vừa làm tròn phận sự của một nàng dâu (chăm sóc, thuốc thang khi mẹ chồng đau ốm, ma chay chu tất khi bà qua đời).

b. Là người có số phận bất hạnh:

- Nạn nhân của chế độ nam quyền, của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa: cuộc hôn nhân của nàng không xuất phát từ tình yêu; phải đằng đẵng chờ chồng khi chồng đi chiến trận.

- Bị chồng nghi ngờ lòng chung thủy chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ (chú ý các lời thoại của Vũ Nương: cố phân trần với chồng, biện bạch cho mình mà không được, đau khổ tuyệt vọng khi bị chồng mắng nhiếc, đánh đuổi đi, bị dồn vào bước đường cùng: phải tự vẫn ở bến Hoàng Giang để bảo toàn danh dự).

- Đoạn kết của truyện tuy mang màu sắc cổ tích (kết thúc có hậu) nhưng vẫn không làm mờ đi bi kịch của Vũ Nương: nàng không thể trở về dương thế sống bên cạnh chồng con được nữa.

c. Từ nhân vật Vũ Nương, khái quát lên phẩm chất và số phận của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến:

- Nguyễn Dữ đã đặt nhân vật Vũ Nương vào nhiều hoàn cảnh khác nhau để làm bật lên phẩm chất và cả sự bất hạnh của nàng. Cách dẫn dắt tình tiết sinh động, hấp dẫn, sự đan xen các yếu tố kỳ ảo với những yếu tố thực khiến cho nhân vật vừa mang những đặc điểm nhân vật của thể loại truyền kì vừa gắn với cuộc đời thực.

- Vũ Nương là người phụ nữ mang vẻ đẹp mẫu mực của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến xưa kia. Lẽ ra nàng phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhưng lại phải chết oan uổng, đau đớn. Phẩm chất và số phận bi thảm của nàng gợi phẩm chất tốt đẹp và số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia.

- Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ cất lên tiếng nói thông cảm, bênh vực người phụ nữ đồng thời phản ánh, tố cáo xã hội phong kiến bất công, vô nhân đạo.
 
T

trungsuvan

Trong thời kì được coi là mục nát nhất, suy sụp nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, đã có rất các nhà văn, thi sĩ đại tài nhưng lại bất mãn với thời cuộc chiến tranh loạn lạc mà về ở ẩn – Nguyễn Dữ là 1 trong số những người như vậy. Sinh trưởng trong gia đình có dòng dõi làm quan, ông sớm được trọng dụng ở thời Mạc rồi thời Lê. Nhưng ông đã cáo quan, lấy cớ nuôi mẹ, về ở ẩn nơi núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm thành công nhất mà cũng là duy nhất của ông là tập “Truyền kì mạn lục” ( Sao chép tản mạn những truyện lạ). “Truyện người con gái Nam Xương” được trích từ kiệt tác này. Truyện kể về về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị xỉ nhục,bị đẩy đến bước đường cùng , phải kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận , hình ảnh của Vũ Nương - một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt
Vũ Nương là con nhà nghèo, một phụ nữ bình dân. Người đã được giới thiệu trong truyện “ tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Còn chồng nàng, Trương Sinh, là một người đa nghi, con nhà giàu, ít học. Chính những tính nết này đã đẩy Vũ Nương vào bi kịch.
Nguyễn Dư đã tập trung khắc họa vẻ đẹp đức hạnh của Vũ Nương trong các mối quan hệ với chông, với mẹ chồng và với bé Đản – đứa con yêu quý của nàng. Để làm nổi bật nàng, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào các hoàn cảnh, tình huống đặc biệt. Nàng là một người vợ thủy chung, hết mực yêu thương chồng. Khi mới lấy chồng, Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép, nên cho dù Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng nghừa quá mức nhưng gia đình vẫn luôn êm ấm thuận hòa. Khi tiễn chồng đi lính, nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được bình yên trở về: “ Chàng đi chuyến này … mang theo 2 chữ bình yên thế là đủ”. Nàng rất cảm thông với nỗi vất vả gian lao mà chông nàng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc. Nàng đã nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình – những lời nói ân tình đằm thắm này của nàng khi tiễn chồng đã làm cho người đọc xúc động. Khi Trương Sinh đi chiến trận, xa chồng, Vũ Nương càng tỏ rõ là người vợ thủy chung, yêu chông hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầu mùa – cảnh vui mùa xuân hay mây che hình núi – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chạnh nỗi nhớ nhung da diết, thổn thức tâm tình. Tiết hạn đấy của Vũ Nương cũng được khẳng định lại trong câu nói với chồng: “ … cách biệt 3 năm, giữ trọn một tiết, tô son điểm phẩn, từng đã nguôi lòng…”. Nàng còn là 1 người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng. Trong lúc chồng đi vắng, nàng đã sinh con. Một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm, nàng đã hết lòng chăm sóc, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên đơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăn trối của mẹ chồng đã ghi nhận công lao của Vũ Nương với gia đình nhà chồng. Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một người mẹ rất mực yêu thương con. Khi chồng đi lính, nàng đã sinh con một mình, dành hết tình yêu thương cho bé Đản. Nàng đã yêu con bằng cả phần người cha cộng lại. Nàng còn chỉ bóng của mình trên tường để dỗ con vì thương con thiếu vắng tình cha. Nàng là một người phụ nữ trọng nhân phẩm và nghĩa tình. Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói lên thân phận mình, nói đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ. Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhưng đó là giải pháp duy nhất của Vũ Nương. Lời than của nàng là 1 lời thề nguyện: “Xin thần sông chứng giám…” Hành động trầm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Đối với người phụ nữ bất hạnh ấy, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. Vũ Nương còn là 1 người phụ nữ rất coi trọng tình nghĩa. Dù thương nhớ về quê hương song nàng quyết giữ lời hứa với Linh Phi
Vũ Nương quả là 1 người phụ nữ lí tưởng : xinh đẹp, nết na, đảm đang, hiếu thuận, thủy chung,… Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết 1 cách oan uổng, đau đớn. Nàng phải chịu nỗi kỉ oan, bị chồng nghi oan là thất tiết, bị đối xử bất công, tàn nhẫn đến mức nàng phải tìm đến cái chết để giải tỏ tấm lòng mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương là từ chiếc bóng trên vách và lời nói của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa trước hết là từ người chồng đa nghi và thô bạo. Trương Sinh được giới thiệu từ đầu là 1 người “có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức” và là con nhà hào phú nhưng không có học. Đó chính là mầm mống của bi kịch. Tiếp theo đó là sự xử xự hồ đồ, độc đoán, phũ phàng của Trương Sinh khi ghen tuông mù quáng. Trương Sinh đã phớt lờ tất cả các cơ hội để tránh được thảm kịch và mắng nhiếc, đuổi đánh Vũ Nương đi. Nguyên nhân tiếp theo là lễ giáo phong kiến hà khắc, không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ, coi người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc vào điều ô nhục nhất. Tất cả những cái đó đã bức tử Vũ Nương, khiến nàng phải chết. Vũ Nương chính là một nạn nhân của xã hội phong kiến
Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung kết thúc có hậu hay không – phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, đặc biệt là chi tiết kết thúc tác phẩm : “ Vũ Nương ngồi trên 1 chiếc kiệu hoa, đứng ở giữa dòng, theo sau có tới 50 chiếc xe cờ, võng, lọng, rực rỡ dòng sông, lúc ẩn lúc hiện.” Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và ở thế giới ấy, nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Chi tiết cuối truyện góp phần làm hoàn chỉnh thêm nhân cách của Vũ Nương : “ Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa…” Nó góp phần tạo nên kết thúc phần nào có hậu thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về cái đẹp, cái thiện, thể hiện lòng khát khao 1 cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên, nó không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương và chồng con vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương chỉ hiển linh trong thoáng chốc rồi “ bóng người loang loáng, mờ nhạt dần và biến đi mất”. Hạnh phúc đã vĩnh viễn biến mất. Sương khói giải oan tan đi chỉ còn lại sự thực cay đắng : nỗi oan người phụ nữ không đàng tràng nào giải được. Sự ân hận của người chồng cũng không hàn gắn được gia đình. Lời từ biệt của Vũ Nương như 1 lời tố cáo chốn nhân gian phong kiến ngày xưa đầy oan nghiệt, khổ đau, không chốn dung thân cho con người, đặc biệt là người phụ nữ
II: Nhận xét về GTNĐ:
1: Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật Vũ Nương
2: Thể hiện niềm thương cảm đối với số phận của người phụ nữ
3: Đồng cảm với ước mơ khát vọng về 1 cuộc sống công bằng, hạnh phúc
4: Gián tiếp lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công:
+ Xã hội phong kiến với chế độ nam quyền đã dung túng, bênh vực những suy nghĩ, hành động của Trương Sinh, đẩy Vũ Nương đến cái chết bi thảm
+ Xã hội phong kiến với cuộc chiến tranh phi nghĩa chia cách tình cảm vợ chồng, cha con,
 Gây ra bi kịch của Vũ Nương
+ Xã hội phong kiến không có chỗ cho những con người tốt đẹp như Vũ Nương được sống
5: Nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi thông điệp nhiều ý nghĩa mà trong đó bài học sâu sắc nhất, cảnh tỉnh con người sống thiếu lòng tin và tình yêu thương có thể đẩy hạnh phúc gia đình đến bi kịch không thể cứu vãn
 
M

meoprovip1999

K biết bạn copy ở đâu nhưng nhầm rồi.

Nhà thơ Huy Cận từng viết :



" Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ "



Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã đc đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:

" Đau đớn thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung "

Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng " Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi ! ", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong " Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm " Truyện Kiều " của Nguyễn Du và " Chuyện người con gái Nam Xương " của Nguyễn Dữ.



Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.

Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương ( " Chuyện người con gái Nam Xương " ).



Tục ngữ có câu " Gái có công thì chông chẳng phụ " thế nhưng công lao của Vũ Nương chắng những không được biết đến mà chính nàg còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.



Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du.

Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều



Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:



" Thân em như hạt mưa sa

Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài "



Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn . Với chế độ nam quyền : " Trọng nam khinh nữ " , người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buồng bởi những lễ giáo fong kiến khắc nghiệt như đạo " tam tòng " , hay các quan niệm lạc hậu như " nữ nhân ngoại tộc "… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.

Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn ngơi ngớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.


Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói " Hồng nhan thì bạc phận " nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình dẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.



Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòg người dọc.

Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.

Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt- đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.



Viết " Chuyện người con gái Nam Xương " và " Truyện Kiều ", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.
Bạn có thể tham khảo dàn bài trên để viết bài cho mình ngoài ra bạn cũng có thể liên hệ thân phận người phụ Việt Nam xưa trong xã hội phong kiên qua các bài thơ như Tự Tình của Hồ Xuân Hương , Thương Vợ của Trần Tế Xương , Bánh Trôi Nước của Hồ Xuân Hương ...hoặc các tác phẩm văn học mà bạn đã học qua rồi. Bạn vào thêm link này tham khảo về phụ nữ Việt Nam xưa

Thuý Kiều có 40 lạng vàng thôi mà, đâu phải 400.:D
 
T

thanhhuyenangela

Dàn ý :
a, Mở bài : Giới thiệu chung về số phận người phụ nữ trong XHPK xưa, khái quát về 2 nhân vật : Vũ Nương và Thúy Kiều qua 2 tác phẩm :Chuyện người con gái Nam XươngTruyện Kiều.
b, Thân bài : * - Về Vũ Nương ( trong Chuyện người con gái Nam Xương ), có những ý chính :
+ Nàng là một người xinh đẹp, nết na, thùy mị, dịu dàng, đảm đang, yêu chồng, thương con, kính mẹ chồng như cha mẹ ( nêu dẫn chứng ).
+ Tuy vậy, nàng phải chịu một số phận éo le. Khi chồng về, nàng bị chồng nghi oan, đến mức phải nhảy sông tự vẫn để giữ gìn danh tiếng.

* - Về Thúy Kiều ( trong Truyện Kiều )
+ Nàng là một tiểu thư đài các, đẹp về cả hình thức lẫn tâm hồn. Nhan sắc của nàng " độc nhất vô nhị ", còn về tài năng, nàng giỏi đủ mọi nghề : cầm, kì, thi, họa. Nàng có một tâm hồn trong sáng " tường đông ong bướm đi về mặc ai ". ( nêu dẫn chứng ).
+ Cũng như Vũ Nương, số phận của nàng bị vùi dập bởi sự tàn bạo của XHPK. Nàng qua tay những kẻ độc ác, coi nàng như món đồ chơi, đau khổ đến mức phải hai lần nhảy sông tự vẫn. ( nêu dẫn chứng ).

=> Họ là những người phụ nữ đẹp về cả nhan sắc lẫn phẩm hạnh, nhưng lại bị XHPK chèn ép, vùi dập.
c, KB : Khái quát lại hình tượng người phụ nữ; nêu cảm xúc về họ - những người phụ nữ trong XHPK xưa.
 
Last edited by a moderator:
T

theworldloveless

“Phận đàn bà”- cụm từ này dường như đã trở thành một câu thành ngữ kinh điển để chỉ chung thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cũng như Thúy Kiều trong truyện Kiều của Nguyễn Du là một người phụ nữ tài sắc vẹn tòan nhưng bạc mệnh. Hay Kiều Nguyệt Nga trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là người phụ nữ nết na, hiếu thảo, nghĩa tình. Thì nay những phẩm chất cao đẹp ấy của người phụ nữ thời phong kiến như được Nguyễn Dữ ghi nhận và cảm thương sâu sắc qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, một người phụ nữ đức hạnh, mang số phận không kém phần éo le và để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm .

Bằng những từ ngữ gợi cảm, đặc sắc, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và tâm lý nhân vật sâu sắc, kết hợp tự sự với trữ tình, Nguyễn Dữ đã thành công trong việc xây dựng hình tượng Vũ Nương đồng thời thể hiện niềm thương cảm với số phận người phụ nữ Việt Nam xưa. Vì thế ngay trong tác phẩm, trong từng lời, từng chữ viết tác giả đã tỏ ý muốn bênh vực cho nàng. Qua đó, ta thấy lại có thêm một nhận định về tác giả là người có tư tưởng tiến bộ, có tấm lòng nhân hậu.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu về nhân vật chính: Vũ Nương, người con gái quê ở Nam Xương, hiền dịu, nết na, tư dung tốt đẹp. Còn chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu, một kẻ thất học và cả ghen. Tác giả đã lưu ý dùng biệt pháp đối sánh để nổi bật những vẻ đẹp của Vũ Nương về sau và phần nào sơ lược mốc nguyên nhân gây nên nỗi oan uất của nàng qua hình ảnh nhân vật Trương Sinh. Như bao người phụ nữ thời phong kiến khác , nàng chỉ mong có một cuộc sống lứa đôi, an bề nghi thức. Bởi thế nàng lúc nào cũng cố giữ hòa khí gia đình, giữ gìn khuôn phép. Thế nhưng sự đời quả nhiên khó đóan, sau khi Vũ Nương lấy Trương Sinh không bao lâu thì đất nước xảy ra chiến tranh. Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng vì thất học nên phải đi lính. Trước lúc Trương Sinh lên đường, Vũ Nương nói: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi….” Lời của nàng thật cảm động và xót xa, nếu không phải là một người phụ nữ yêu chồng sâu nặng hẳn nàng sẽ không thể nói được những lời như thế.
Tuy chồng đã ra đi biền biệt phương xa cách trở, nhưng nàng vẫn giữ trọn khí tiết, một lòng chờ chồng, không hề “ngõ liễu tường hoa”, không màng danh lợi phú quý. Và nàng cũng rất mực hiếu thảo với mẹ chồng. Vũ Nương chăm sóc mẹ chồng chu đáo, khi bà ốm đau Vũ Nương hết lòng thuốc thang, khuyên lơn. Đến khi mẹ chồng mất, Vũ Nương đôn đáo lo toan ma chay không khác gì đối với cha mẹ ruột. Dường như hiểu thấu được tấm lòng của con dâu nên trước khi chết bà trối lại rằng: “ngắn dài có số, tươi héo bởi trời.…Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người người xưa có câu “Mẹ chồng nàng dâu , nấu đầu trâu không thủng”, thế nhưng ở đây ta lại thấy tình cảm giữa mẹ chồng và nàng Vũ Nương rất mực thân tình. Thật sự điều này rất có hiệu quả trong việc tôn vinh tính cách cao đẹp của Vũ Nương, khiến cho mẹ chồng cũng cảm nhận được; đồng thời đó cũng là khát vọng của tác giả thương cảm cho những người phụ nữ thời phong kiến luôn chịu những lễ giáo vô cùng khắc nghiệt, đặc biệt là mối quan hệ giữa mẹ chồng và con dâu. Lại kể từ khi Trương Sinh ra trận được mười ngày thì Vũ Nương sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản. Vũ Nương rất mực yêu thương đứa con của mình. Cũng vì lẽ đó nàng luôn muốn con có cảm giác có cha chở che nên hay chỉ bóng mình trên vách bảo với con đấy là cha nó . Mỗi lần chỉ cái bóng của mình như thế, Vũ Nương như nguôi ngoai bớt phần nào nỗi nhớ thương chồng. Qua những chi tiết trên ta nhận ra Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, chung thủy, hiếu thảo, giàu lòng yêu thương. Một mình thân liễu lại mới sinh con thế mà nàng vẫn có thể thay chồng quán xuyến mọi công việc trong gia đình, từ việc chăm sóc mẹ chồng đến sinh và nuôi dạy con ăn học. Ôi! Người phụ nữ đức hạnh như thế có điểm nào mà chê trách được không cơ chứ, chỉ trách là số phận nghiệt ngã đã đưa đẩy nàng đến cảnh oan trái mà thôi.
Ngày Trương Sinh trở về , Vũ Nương ngỡ như niềm ao ước bấy lâu: gia đình được sum vầy hạnh phúc, hóa ra lại là bi kịch đời nàng. Trương Sinh trở về hay tin mẹ mất, chàng đau buồn lắm rồi bế con ra viếng mộ mẹ, khi đó đứa bé đã bật ra một câu nói rất con trẻ :
- Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít .
Chính câu nói của đứa bé là nút thắ , thắt số phận của nàng Vũ Nương từ ngày ấy. Thế là bi kịch bắt đầu chỉ bằng một lời nói tưởng như rất ngây thờ ngờ nghệch của đứa bé. Cùng với sự ghen tuông đến mất cả lý trí của Trương Sinh đã vội kết tội người vợ hiền thủy chung. Trương Sinh nghi oan vợ, cứ nói bóng nói gió thậm chí mắng nhiếc đánh đập vợ, một mực không nghe bất cứ một lời thanh minh nào của nàng. Cuối cùng nàng đành bất đắc dĩ mà nói: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.” Đó là lời nói trong nỗi tuyệt vọng của Vũ Nương. Trong nàng mọi thứ hòan tòan đã chấm dứt, một khát khao duy nhất là “hạnh phúc” đều đổ vỡ cả. Không còn cách nào khác, nàng đành chọn cách tự vẫn để minh chứng cho tấm lòng trong trắng của mình. Nhưng đó không không phải là một cái chết vội vã, hời hợt mà là một sự chuẩn bị chu đáo. Vũ Nương tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hòang Giang, ngửa mặt thề trước trời đất chứng giám cho tấm lòng của nàng. Đến đây ta lại thấy ở Vũ Nương thêm một nét đẹp của lòng tự trọng và vô cùng bản lĩnh.
Từ hình ảnh của Vũ Nương làm ta liên tưởng đến “Quan âm thị kính”, cũng là người phụ nữ có tư dung tốt đẹp, cũng chịu phải nỗi oan không thể hóa giải. Thế nhưng trong “Quan âm thị kính” thì lại chọn một cách khác để giãi bày nỗi oan của mình. Từ đó tác giả làm nổi bật một nguyên nhân sâu xa mà tác giả muốn lên án là một xã hội phong kiến nam quyền, một xã hội với những lễ giáo khắc nghiệt đã dồn Vũ Nương cũng như những người phụ nữ khác đến bước đường cùng, đã thao túng cho hành động của Trương Sinh mà không bị ai phê phán. Trong xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ , người phụ nữ không hề có quyền hạn gì, họ luôn bị gò ép trong khuôn khổ, bị vùi dập thậm chí là oan uất. Mặc dù phải sống trong xã hội bùn sình ấy, họ vẫn vươn lên như những đóa sen thơm ngát, thơm ngát những vẻ đẹp cao quý của một người phụ nữ. Đó thật sự là một điều đáng trận trọng và kính nể.
Nhưng rồi tác giả không dừng lại ở đọan kết thúc truyện khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ. Nguyễn Dữ đã hư cấu thêm cho phần kết truyện: Vũ Nương đã được Linh Phi cứu, trở thành tiên và sống một cuộc sống xứng đáng ở chốn làng mây cung nước. Ở đây ông có sự đồng cảm sâu sắc với số phận của Vũ Nương. Nguyễn Dữ không dừng lại ở sự việc Vũ Nương được giải oan, có thể nói kết truyện mà ông hư cấu là một kết thúc có hậu mà chúng ta mong đợi, cho thấy tác giả đã thấu hiểu cho số phận oan nghiệt và éo le của Vũ Nương. Số phận người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến nói chung và Vũ Nương nói riêng luôn bị những lễ giáo khắc nghiệt vùi dập. Xã hội phong kiến với bao bất công, định kiến đã dồn số phận người phụ nữ vào ngõ cùng. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ nương, tác giả đã lên án xã hội đương thời đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.

Vũ Nương là đại diện cho những người phụ nữ ngày xưa: dung hạnh tốt đẹp hết mực yêu thương gia đình chồng con nhưng số phận trân chuyên, bập bênh. Truyện đã góp phần vào tiếng nói chung , phản ánh xã hội phong kiến đương thời đã đẩy cuộc đời của người phụ nữ vào những hòan cảnh bất hạnh, đồng thời đề cao vẻ đẹp, giá trị phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.

Nguồn: www.vn-zoom.com
 
S

snsdpro

Bài làm 1
Trong thời kì được coi là mục nát nhất, suy sụp nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, đã có rất các nhà văn, thi sĩ đại tài nhưng lại bất mãn với thời cuộc chiến tranh loạn lạc mà về ở ẩn – Nguyễn Dữ là 1 trong số những người như vậy. Sinh trưởng trong gia đình có dòng dõi làm quan, ông sớm được trọng dụng ở thời Mạc rồi thời Lê. Nhưng ông đã cáo quan, lấy cớ nuôi mẹ, về ở ẩn nơi núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm thành công nhất mà cũng là duy nhất của ông là tập “Truyền kì mạn lục” ( Sao chép tản mạn những truyện lạ). “Truyện người con gái Nam Xương” được trích từ kiệt tác này. Truyện kể về về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị xỉ nhục,bị đẩy đến bước đường cùng , phải kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận , hình ảnh của Vũ Nương - một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt
Vũ Nương là con nhà nghèo, một phụ nữ bình dân. Người đã được giới thiệu trong truyện “ tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Còn chồng nàng, Trương Sinh, là một người đa nghi, con nhà giàu, ít học. Chính những tính nết này đã đẩy Vũ Nương vào bi kịch.
Nguyễn Dư đã tập trung khắc họa vẻ đẹp đức hạnh của Vũ Nương trong các mối quan hệ với chông, với mẹ chồng và với bé Đản – đứa con yêu quý của nàng. Để làm nổi bật nàng, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào các hoàn cảnh, tình huống đặc biệt. Nàng là một người vợ thủy chung, hết mực yêu thương chồng. Khi mới lấy chồng, Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép, nên cho dù Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng nghừa quá mức nhưng gia đình vẫn luôn êm ấm thuận hòa. Khi tiễn chồng đi lính, nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được bình yên trở về: “ Chàng đi chuyến này … mang theo 2 chữ bình yên thế là đủ”. Nàng rất cảm thông với nỗi vất vả gian lao mà chông nàng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc. Nàng đã nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình – những lời nói ân tình đằm thắm này của nàng khi tiễn chồng đã làm cho người đọc xúc động. Khi Trương Sinh đi chiến trận, xa chồng, Vũ Nương càng tỏ rõ là người vợ thủy chung, yêu chông hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầu mùa – cảnh vui mùa xuân hay mây che hình núi – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chạnh nỗi nhớ nhung da diết, thổn thức tâm tình. Tiết hạn đấy của Vũ Nương cũng được khẳng định lại trong câu nói với chồng: “ … cách biệt 3 năm, giữ trọn một tiết, tô son điểm phẩn, từng đã nguôi lòng…”. Nàng còn là 1 người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng. Trong lúc chồng đi vắng, nàng đã sinh con. Một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm, nàng đã hết lòng chăm sóc, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên đơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăn trối của mẹ chồng đã ghi nhận công lao của Vũ Nương với gia đình nhà chồng. Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một người mẹ rất mực yêu thương con. Khi chồng đi lính, nàng đã sinh con một mình, dành hết tình yêu thương cho bé Đản. Nàng đã yêu con bằng cả phần người cha cộng lại. Nàng còn chỉ bóng của mình trên tường để dỗ con vì thương con thiếu vắng tình cha. Nàng là một người phụ nữ trọng nhân phẩm và nghĩa tình. Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói lên thân phận mình, nói đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ. Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhưng đó là giải pháp duy nhất của Vũ Nương. Lời than của nàng là 1 lời thề nguyện: “Xin thần sông chứng giám…” Hành động trầm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Đối với người phụ nữ bất hạnh ấy, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. Vũ Nương còn là 1 người phụ nữ rất coi trọng tình nghĩa. Dù thương nhớ về quê hương song nàng quyết giữ lời hứa với Linh Phi
Vũ Nương quả là 1 người phụ nữ lí tưởng : xinh đẹp, nết na, đảm đang, hiếu thuận, thủy chung,… Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết 1 cách oan uổng, đau đớn. Nàng phải chịu nỗi kỉ oan, bị chồng nghi oan là thất tiết, bị đối xử bất công, tàn nhẫn đến mức nàng phải tìm đến cái chết để giải tỏ tấm lòng mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương là từ chiếc bóng trên vách và lời nói của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa trước hết là từ người chồng đa nghi và thô bạo. Trương Sinh được giới thiệu từ đầu là 1 người “có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức” và là con nhà hào phú nhưng không có học. Đó chính là mầm mống của bi kịch. Tiếp theo đó là sự xử xự hồ đồ, độc đoán, phũ phàng của Trương Sinh khi ghen tuông mù quáng. Trương Sinh đã phớt lờ tất cả các cơ hội để tránh được thảm kịch và mắng nhiếc, đuổi đánh Vũ Nương đi. Nguyên nhân tiếp theo là lễ giáo phong kiến hà khắc, không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ, coi người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc vào điều ô nhục nhất. Tất cả những cái đó đã bức tử Vũ Nương, khiến nàng phải chết. Vũ Nương chính là một nạn nhân của xã hội phong kiến
Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung kết thúc có hậu hay không – phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, đặc biệt là chi tiết kết thúc tác phẩm : “ Vũ Nương ngồi trên 1 chiếc kiệu hoa, đứng ở giữa dòng, theo sau có tới 50 chiếc xe cờ, võng, lọng, rực rỡ dòng sông, lúc ẩn lúc hiện.” Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và ở thế giới ấy, nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Chi tiết cuối truyện góp phần làm hoàn chỉnh thêm nhân cách của Vũ Nương : “ Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa…” Nó góp phần tạo nên kết thúc phần nào có hậu thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về cái đẹp, cái thiện, thể hiện lòng khát khao 1 cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên, nó không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương và chồng con vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương chỉ hiển linh trong thoáng chốc rồi “ bóng người loang loáng, mờ nhạt dần và biến đi mất”. Hạnh phúc đã vĩnh viễn biến mất. Sương khói giải oan tan đi chỉ còn lại sự thực cay đắng : nỗi oan người phụ nữ không đàng tràng nào giải được. Sự ân hận của người chồng cũng không hàn gắn được gia đình. Lời từ biệt của Vũ Nương như 1 lời tố cáo chốn nhân gian phong kiến ngày xưa đầy oan nghiệt, khổ đau, không chốn dung thân cho con người, đặc biệt là người phụ nữ
 
Top Bottom