[Văn 9]: Phân tích nhân vật Vũ Nương

T

thao98tb_710

Last edited by a moderator:
0

0973573959thuy

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kí song được tôn vinh " thiên cổ kì bút " thì cho đến này chỉ có 1 Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ . Và Trong đó đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương đặc sắc nhất : đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa
Truyền Kì Mạn Lục là lọai văn chuyên gi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền . Cho nên trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian . Hẳn không mấy ai không biết đến 2 bài thơ viếng thăm nàng vũ thị trong hồng đức quốc âm thi tập . 2 bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ chàng Trương là có thật . Đã được dân gian lưu truyền . Nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản : biển chép lại cho đúng 1 chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trước đó mà còn phải nhào nặn lại câu chuyện làm cho nó gần gũi với người đọc , mang dấu ấn của thời đại mình
Truyện mở đầu bằng dòng chữ " Vũ Thị Thiết , người con gái quê ở Nam Xương ..." Tên tuổi , quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng như thế Chứ không giống như những nhân vật khác : Chàng họ Trương , ông họ Phan . Thật lạ! . Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên , danh tính để lưu truyền cho hậu thế . Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là 1 người đàn bà bình thường , thuộc giới nghèo hèn " vốn con kẻ khó " , dung mạo thì không có gì đặc biệt . Vậy mà nàng đã là 1 nhân vật lưu truyền nơi hậu thế . Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội . Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc trong tâm trí ông . Ông quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng văn chương trong đội ngữ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa
Phải Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời 1 mẫu người phụ nữ lí tưởng , tuy không phải là giai nhân những lại hội tụ những đức tính phẩm chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết! " tính tình thùy mị nết na lại thêm tư Dung tốt đẹp " Tuy tác giả đã nói rằng 2 yếu tố bên trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan . chẳng khác nào Kiều xưa kia . Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng . Chữ dung đã thua chữ tài . Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn truyện sẽ không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngòai của nàng ta nữa . >>> Vũ Nương đã chiếm được vị trí trong lòng chúng ta không phải là do tư dung mà do phẩm hạnh . Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ . Phẩm chất Vũ Nương là về gia định . Từ khi về nhà chông Vũ Nương luôn tỏ ra là 1 người con dâu hiểu thảo , đảm đang , hay làm , biết tình chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ chồng thất hòa , rồi còn lo lắng thuốc than và ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa Vũ Nương đã làm tất cả để giữ gìn , vun vén cho hạnh phúc của gia đình Thật là 1 con người tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở xã hội xưa .
Trong xã hội xưa vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp hèn nhất . Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để đày đọa , hay kiếm đứa cháu nối dõi tông đường . Cho nên mẹ chồng và con dâu thường thất hòa , không dễ hòa thuận .Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này tô đậm phẩm giá của mình . Những lời khen này càng trở nên ý nghĩa hơn , có giá trị hơn gấp bội " Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được . Sau này , trời xét lòng thành , ban cho phúc đức , giống dòng tươi tốt , con cháu đông đàn , xanh kia quyết chẳng phụ con , cũng như con đã chẳng phụ mẹ "
Đúng là như thế . Vũ Nương thật là 1 người con gái tài sắc vẹn tọan . sống trên đời không để phụ ai , luôn đối xử ân cần với mọi người . vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ . Tai họa bỗng chốc ập đến . Thật đột ngột! Thật nhanh chóng ! Đến khó tin kì lạ . Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những lời nói thiết tha đẫm lệ : " Nhìn trăng soi thành cũ , lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa , trông liễu rũ bãi hoang , lại thổn thức tâm tình thương người đất khách ! . Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng " Mới ngày nào cuộc tiễn biết đầy vương vấn nhơ nhung" Ngước mắt cảnh vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san ! " Những câu viết không vưt khỏi ước lê văn chương 1 thuở nhưng lại có sức lay động lòng người lạ thường ! . Vì những tình cảm ấy rất chân thành . Vậy mà trời đã phụ lòng người chỉ " qua năm sau " thôi tất cả đều tan nát . Thay cho Trang , cho Liễu , cho " cánh hồng bay bổng " và mối tình muôn dặm quan san " chỉ còn là nỗi nghi ngờ , những lời máng nhiếc đánh đập đến thậm tệ . Công lao nuôi con dưỡng mẹ , làm tròn bổn phận con dâu đều đổ xuống sông xuông biển , tới mức " không còn có thế lại lên núi Vọng Phu nữa " Nhưng đáng buồn thay ! Tai họa này chỉ do 1 lí do không đáng nói ! . Do cái bóng ! . Vì nhớ chồng , con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản . Và lòng nàng cũng xem nó là chồng . Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là sự thật . Và cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi Mẹ Đản ngôi cũng ngồi . Và khi qua tai Trương Sinh thì những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật . Cái bóng thành người . Hại cho đời người con gái tài sắc
Chắc hẳn trong các tác phẩm văn học , Có được sự sáng tào tài tình tinh sao như chi tiết về chiếc bóng oan nghiệt này sẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay 1 sự song trùng thật kì ảo thật đáng ngạc nhiên Bóng dần biến thành người . Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư , cái giả chập chờn trong cái thật . Không phải là người vô cũng thiết tha với hạnh phúc của 1 gia đình được sum vầy , đoan tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ ra trờ chơi này . Nào ngờ chính nó đã làm tan nát đời nàng . Khi trở cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha . Nhưng hoa ra chính vì thế mà nàng đã mất chông , Đản đã mất mẹ . Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chờ về . Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa đến như vậy . Đã ém ngẹm lại cái chi tiết giật gân ấy . Rồi búng nén ra ở 1 vị trí thích hợp đã gây ra bão giông , khuấy lên sóng gió . Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh khỏi nổ bùng. " Thú vui nghi gia nghi thật, hạnh phúc duy nhất , niềm mong ước duy nhất của 1 đời Vũ Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ .Bình đã rơi , trâm đã gãy , liễu đã tàn trước gió , sen đã rũ trong ao , người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình
Nàng đã gieo mình xuống sông Hòang Giang tự vẫn . Và người đời sẽ lưu truyền thêm 1 tấm bi kịch về số phận người phụ nữ . Tấm bi kich về cái đẹp bị chà nát phũ phàng Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ , sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà kyhắc dung túng cho sự độc ác hủ bại . Nàng đã gặp 1 người chồng tuy là con nha hào phú m song ít học lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng . Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh đã dồn nàng đến bước đường cùng . Giá như Trương Sinh bình tĩnh tìm hiểu 1 chút thôi thì tấm bi kịch chết người kia sẽ không thể xảy ra . Nhưng đó chỉ là giá như thôi vì Nguyễn Dũ đã đặt dấu chấm than cho mọi sự đã rồi.
 
U

uocmovahoaibao

Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ TK 16. ngoài thơ ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện. Đằng sau ''truyền kì mạn lục'' chứa đựng nội dung phê phán hiện thực xã hội đương thời. ''Chuyện người con gái Nam Xương'' trích trong '' Truyền kì mạn lục'' ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương người con gái đức hạn quê đất Nam Xương xưa.
Được biết đến Vũ Nương là một người đàn bà bình thường, ''vốn con nhà khó'' nhưng nàng là một người có nhân phẩm cao quý, hiền thảo và có lòng tự trọng. Phẩm chất ấy biểu hiện rõ khi nàng đã làm dâu nhà giàu. Biết tính chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng để cho vợ chồng không thất hòa dù Trương Sinh chồng nàng là người phú quý nhưng lại ít học, đa nghi quá sức. Ngày Trương Sinh đi lính thì hành động và lời đưa tiễn chồng của người vợ hiền'' …chẳng mong chàng áo gấm trở về…là đủ rồi'' là chi tiết tiêu biểu cho cái ''công dung ngôn hạnh'' mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành. Hơn thế là nỗi nhớ nhung, sự cô đơn của người vợ trẻ cho ta thấy, phải ngợi ca con người nhân hậu và đảm đang đó. Nhân cách cao đẹp ấy của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng khi chồng đi lính. Khi mẹ chồng lâm bệnh nàng đã hết mình chăm sóc, nàng xem như đó là mẹ đẻ mình. Rồi sự chu đáo của Vũ Nương thể hiện việc lo tang ma, cúng lễ đã thoát lên tấm lòng hiếu thảo của con dâu đáng quý. Lòng chung thủy biểu hiện ở Vũ Nương cụ thể là hành động nuôi con, thờ chồng suốt những ngày Trương Sinh đi lính chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút, đùm bọc, gắn bó. Cậu bé Đản nhỏ bé tí hàng đêm được mẹ chỉ cái bóng của mình trên tường gọi là cha một cách dỗ con ngủ thật hồn nhiên nhưng cũng thể hiện tình yêu của nàng đối với chồng như hình với bóng. Lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình. Hết hạn đi lính chàng trở về cùng tâm trạng đau đớn khi mẹ già đã mất, con không nhận cha và chàng tin vào câu nói hồn nhiên của con là cha trên vách tường. Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra lẽ bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hóa kia, chàng đánh đập, chửi rủa đuổi nàng ra khỏi nhà mà bỏ ngoài tai những lời bênh vực của hàng xóm. Hành động tự vẫn là thấi độ cuối cùng được phép mà Vũ Nương có thể làm cho sự tiết hạnh không phai mờ. câu chuyện trên đã phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến, dưới chế độ nam quyền. câu chuyện đã ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời, không chỉ Vũ Nương mà còn rất nhiều thân phận người phụ nữ''ba chìm bảy nỗi'' cũng sống những cảnh đầy đọa đó.

__________
Chúc bạn học tốt!
Nguồn: net
 
T

temihuong

ukm bài này mình lm hơn6 trang cơ...:)
up hết lên mỏi tay lắm nên mình chỉ up dàn ý sơ lược thôi nha!!%%-

*Kiến thức chung :
#Cảm hứng nhân đạo
- Thương xót
- Yêu quý
- Lên án, tố cáo, vô nhân đạo
- Khát khao hướng tới cái đẹp
#Nguyến Dữ
- Thời đại: XVI -> nội chiến Lê >< Mạc
- Trí thức pk : tư tưởng vì dân chủ
- Sáng tác 1 tập truyện : Truyèn kì mạn lục
# Nghệ thuật
- Dựa vào cốt truyện dân gian ( thần, trời, phât, tiên ,thần ,thánh, ma, quỷ )
......
#Mục đích
- Phản ánh hiện thực, đời thực.
- Số phận con người (người phụ nữ)
=> tự lập => nhân đạo và có tính hiện thực xh.

Dàn bài sơ lược
MB : Giới thiệu tg,tp
Nêu nd chính -> Giới thiệu nv Vũ Nương
TB : Làm rõ các luận điểm sau :
1 : Vũ Nương - nv điểm hình cho bi kịch của người phụ nữ dưới thời pk loạn lạc.
a) Bi kịch của số phận tình duyên
- Nhà nghèo lấy Trương Sinh ít học
VN = nết na, thùy mị,xinh đẹp
TS = thô tục, cục cằn
- Thay chồng chăm sóc mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
( Đừng pt sâu vào ý " thay chồng... " mà chỉ nêu vắn tắn thôi)
b) Nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa
- Nếu chiến tranh không xảy ra -> Trương Sinh không bị bănts đi lính -> Cảnh gđ êm ấm.
- Hiện thực : Trương Sinh đi lính
-> ,mẹ xa con, con xa b,vợ xa chồng tình duyên xa cách -> gánh nặng gđ
=>- vất vả, gian truân, cực nhọc
- nhớ chồng
- mẹ già, ốm yếu
c) Nạn nhân của thói xấu xa, ích kỷ, ghen tuông, nhỏ nhen
- Do xa cách : con không biết mặt cha, cha không biết mặt con
-> bi kịch gđ do không hiểu biết => chồng nghi oan cho vợ
*pt hình ảnh cái bóng
cái bóng "cha" <- hai mẹ con hiểu với nhau
Trương Sinh về : -không hiểu sinh hoạt, chi tiết cái bóng
- không hiểu ý nghĩa cái bóng
-> nghe trẻ con : "cái bóng" = cha Đản
=>nghi ngờ vợ, không nghe vợ lí giải, không kể rõ nguyên nhân, không nghe hàng xóm giải thích,..
=> định kiến -> kết luận vợ ngoại tình
* tóm lại có 2 nguyen nhân:
+ KHách quan : Chiến tranh pk đã chia rẽ ra đình khiến vợ chồng xa cách -> hiểu lầm ngiêm trọng.
Vũ Nương không thể tự minh oan cho mình ->tự vấn
+ Chủ quan : Do Trương Sinh ít học nên không hiểu biết -> lúc nào cũng cho mình đúng -> xô đẩy, chèn ép Vũ Nương.
Do con nhỏ : vô tình, ngây thơ, hồn nhiên không hiểu rõ chuyện.
2 : Vũ Nương điển hình cho phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ.
a) Trước khi làm vợ Trương Sinh
Vũ Thị Khiết : là 1 cô gái bình dân, có nhan sắc, phẩm chất thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. -> Là hiện thân cho cái đpẹ lý tưởng về người phụ nữ Việt Nam
b) Một ngưòi con dâu hiếu thảo
- Thay chồng nuôi dưỡng mẹ chồng, chăm sóc tận tình,..
- lo chữa chạy
- Lo mai táng như mẹ đẻ
=> Kiểu mẫu của ngưòi con dâu với những đức tính, phẩm hạnh đẹp đẽ, đáng trân trọng
c) Một người mẹ hết lòng vì con
- Nuôi dạy con -> vất vả, cực nhọc
- Vì con gánh vác thêm việc của chồng
+ H/a cái bóng : Thực chát là có 2 mẹ con nhưng VN đã " tưởng tượng" ra bóng của mình là cha Đản(tình yêu và ước mơ)
-> Để đứa con được sống trong tình yêu thương bao bọc của cả cha và mẹ.
d) 1 người vợ đảm đang, linh hoạt, tháo vác, hết mực chung thủy.
+ Người vợ đảm đang
- Thay chồng nuôi dạy con
- Thay chồng phụ dưỡng mẹ già
+ Bị mắc oan
- Bị chồng kết tội ->Sự mỉa mai chua xót cay đắng phũ phàng
=> Trãm mình xuống sông để tựu minh oạn.
* Pt lời thề trước khi chết.
"..." -> Ý thức bảo vệ phẩm giá của mình
+ Trở thành mĩ nữ dưới thủy cung, sống sung sướng, nhưng luon nhiws về chồng con, gia đình
* pt lời nói cuối cùng khi được gải oan
"..." -> Đức hạnh, sau nặng tình nghĩa
Tấm lòng bao dung, vị tha, độ lượng.
3 : Nghệ thuật xây dựng nv
...
KB : Khẳng định lại vẻ đẹp của VN
Liên hệ bản thân ( thân phận ng` phụ nữ hiện nay )

P/s : cái này chỉ tương đối thôi, không dc đầy đủ hẳn đâu. Pn phải kết hợp với bài giảng của cô(thầy)giáo và của chình bản than nữa... Good luck ! %%-
 
X

xoaixanhtq98

phân tích nhân vật Vũ Nương

''Truyền kì mạn lục" là ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền. Đối với Ng Dữ "Truyền kì mạn lục'' được người đời tôn vinh là ''Thiên cổ kì bút" cũng đủ để lại cho ông danh tiếng muôn đời. Chuyện người con gái Nam Xương là 1 trong số 20 truyện của ông. Vũ Nương - nhân vật chính của câu truyện là người phụ nữ nết na, hiền thục nhưng phải chịu số phận đau thương, oan nghệt.
Mở đầu tác phẩm, tác giả miêu tả Vũ Nương không chi tiết nhưng đủ để người đọc hìng dung ra nét đẹp của nàng: "Thùy mị, nết na lại thêm tư dung tót đẹp''.Những phẩm chất của Vũ Nương tượng trưng cho 1 người phụ nữ chuẩn mực của xã hội thời đó. Nàng luôn khao khát hạnh phúc gia đình nên khi lấy Trương Sinh Vũ Nương ''hết sức dữ gìn khuôn phép không để gia đình bất hòa''. Năm ấy, Trương Sinh phải đi lính. Phút chia tay, nàng dặn dò chồng không cần ''ấn phong hầu'' chỉ xin chàng dược bình yên. Những lời nói của nàng mộc mạc mà đầy cảm xúc, nàng cảm thông được nỗi vất vả gian lao của chồng, điều nàng mong mỏi là được đoàn tụ, gia đình sum vầy mà thôi.Nàng còn là 1 ng mẹ hiền, ng con dâu hiếu thảo. Bao nhiêu việc trong gia đình đều đổ lên đoi vai gầy của Vũ Ng, 1 mình nàng lo toan tất cả mà không hề có bóng dáng của ng đàn ông bên cạnh. Nàng phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo như với cha mẹ đẻ mình vậy, tấm lòng của nàng đã đc ng mẹ chồng công nhận và đánh giá là"xanh kia quyết chẳng phụ con.., cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Sau khi mẹ chồng mất, Vũ Ng lo ma chay tế lễ đàng hoàng. Nàng quả là người con dâu hoàn hảo, biết lễ nghĩa, phép tắc trong nhà chồng.
Thế nhưng nàng càng vun vén cho hạnh phúc gia đình bao nhiêu thì càng phải chịu đau khổ, bất hạnh bấy nhiêu. Thật oan trái! Ng chồng mà nàng hết mực thg nhớ nay trở về lại nghĩ mình hư hỏng 1 cách vô lí. Chỉ vì tin lời con trẻ rằng mình ko phải cha đẻ của con. Những lời biện bạch tha thiết "Cách biệt 3 năn giữ gìn 1 tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng.. Đâu có sự hư thân mất nết như chàng nói'' đều bị chàng bỏ ngoài tai. Nàng đã hỏi chuyện đó ai nói đều bị chàng gạt phắt đi, trương Sinh chỉ một mực mắng nhiếc và đuổi nàng đi.
Nỗi oan ấy đã làm nàng đâu đướn vô cùng vì ''điều đâu bay buộc'' mà có thể khiến nhân cách trrong trắng của nàng bị xúc phạm. Dù nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn sự đổ vỡ vẫn không tránh khỏi gia đình như ''bình rơi tram gãy,..., sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió''. Đây đúng là 1 bi kịch không đáng có trong đời của Vũ Nương-1 ng phụ nữ tài sắc vẹn toàn như vậy tưởng chừng sẽ có đc hạnh phúc lại thật oan trái. Chúnh nỗi oan đó đã đẩy nàng phải đến với cái chết. Cái chết thể hiện sự tuyệt vọng của nàng trong cuộc sống, thể hiện sự đau đớn khi bị chính ng mình yêu nghi ngờ. Cái chết ko thể là sự giải thoát vì nàng vẫn ko yên lòng khi phải để lại đứa con mới 3 tuổi, để lại hạnh phúc mà mình khao khát 1 đời. Trước khi chết nàng còn"ngửa mặt lên nhìn trời mà than" rồi ôm hận mà lao xuống sông.
Cuối cùng, khi đc Linh Phi cứu nhưng nỗi nhớ của nàng ở trần gian vẫn ko thực hiện đc. Khi Trg Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương đã trở về trong 1 khung cảnh lộng lẫy,nhưng câu nói từ biệt chồng con cho ta thấy bi kịch chưa kết thúc. Niềm mong mỏi hạnh phúc ko thể thực hiện đc vì thế gian này ko giàng những điều tốt đẹp cho nàng. Dù nàng đã đc giải oan, dù nàng co mong nhớ chồng con vô cùng, dù chồng nàng đã nhận ra lỗi lầm nhưng sự thật là nàng đã chết. Sự trở về lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất chỉ làm tăng lên 1 bi kịch kéo dài mãi mãi và ngày càng chua xót.
PHẦN KẾT BÀI MÌNH CHƯA NGHĨ RA. MỌI NGƯỜI CHO MÌNH Ý KIẾN MỚI :)
 
0

0872

Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không hiếm những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương là hai yếu tố thực và truyền kì không đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để xây dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn học). Bằng mối liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác phẩm. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.

Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.

Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó, nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như trong các truyện cổ dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng rất thực.
 
0

0872

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết có "tư dung tốt đẹp".Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng.
Chồng nàng :Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận.
-->cơ sự cũng vì vậy mà nảy sinh...
Trích:
Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.

Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.
-Cái bóng: Phân thân và phản thân

"Con người là một thực thể xã hội sống, được quy định bởi những thiết chế đạo đức nhất định. Chiếc bóng sinh động của con người âm thầm song hành với chủ nhân của nó qua những hành vi mang giá trị đạo đức - xã hội, đồng thời khẳng định giá trị thực thể của chủ nhân."

Cái bóng có lúc lại trở thành một phân thân nổi loạn chống lại chủ nhân của nó, như trong truyện cổ của Hans Christian Andersen (1805-1875) hay trong William Wilson[4] của Edgar Allan Poe (1809-1849). Trong mỗi con người đều tồn tại nhiều “tiếng nói” khác nhau, thậm chí đối lập nhau, của ý thức (consciousness) và tiềm thức (subconsciousness). Nhân cách tiềm thức được hình tượng hóa thành phân thân.

Chính do có thể được dùng như hình tượng văn học để thể hiện con người với tư cách một thực-thể-đạo-đức, cùng những quan hệ biện chứng giữa ý thức và tiềm thức của nó, cái bóng tỏ ra rất hiệu quả trong việc diễn tả những ngóc ngách tâm lý, tình cảm, đặc biệt là cái ghen.

Chỉ âu lo với niềm bất hạnh của chính mình, nàng chẳng hề muốn gieo tai họa cho ai khác.Câu chuyện về cái bóng của mình mà Vũ Nương kể cho con nàng nghe chẳng qua như thể đang tâm sự với chính mình ,để an ủi ngóc ngách nào đó trong tâm hồn nàng :chồng nàng đang ở một nơi nào đó ,và hình bóng người chồng không lúc nào xa rời nàng-->Liệu như thế có phải là đáng trách khi gián tiếp gây ra cơn ghen của Trương Sinh(đêy là suy nghĩ của mình.^^.)

Bởi "con tim không chỉ đơn giản là một vật chỉ biết làm theo ý ta muốn.”
"Ở cấp độ nội tâm cao hơn, con người có được cái nhìn phản thân thông qua nhãn quan đạo đức không ngừng kiến tạo và chuyển hóa từ những quan hệ trong môi trường sống và từ tha nhân - những người vun đắp nên các mối quan hệ nọ."

Trích:
Biên cương bị ngoại xâm, chàng Trương phải sung binh ra miền quan ải, chẳng kịp thấy mặt con. Nàng Vũ ở lại nhà, tròn phận nàng dâu hiếu nghĩa, chinh phụ tiết trinh, mẹ hiền tần tảo. Mẹ chồng và con trẻ là hai chứng nhân khả tín nhất cho tấm lòng son sắc của nàng. Thế nhưng, mẹ già sớm quy tiên, thác nguyện chỉ một điều: “Xin Trời xanh kia chớ phụ dâu mới, bằng dâu mới chưng chẳng phụ mẹ già vậy.”[17] Lời trối trăng của người mẹ cũng là lời chứng cho đức hạnh của nàng khi chồng đồn thú biên viễn xa xăm. Đáng tiếc, lời trối ấy chỉ mình nàng nghe, vì người chết sẽ thôi không nói được nữa. Nhân chứng thân thiết duy nhất còn lại nay là bé Đản.

Khi chàng Trương xuất ngũ trở về, “thời mẹ già đã từ nhà, con trẻ đã học nói vậy.”[18] Bé Đản - nhân chứng nay sẽ là người để chàng Trương thực hiện vế sau của câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.” Dắt con ra thăm mộ mẹ là việc chàng làm trước tiên: “Hỏi mồ mẹ thửa ở đâu. Dắt con một mình đi, con bèn kêu khóc chẳng khứng đi.”[19] Sững sờ khi thấy Đản không nhận mình là cha, chàng Trương gạn hỏi nguồn cơn. Đản bảo chàng chẳng giống người nó từng gọi là cha, người chỉ đến lúc đêm về, lặng thinh theo mẹ không rời: “Ngươi chỉn hay nói, khác chẳng bằng cha thuở nọ lặng vậy, bằn bặt vậy,”[20] “Mẹ Đản đi thời cũng đi, mẹ Đản ngồi thời cũng ngồi. Song chửa từng đến cùng con là Đản này dắt ẵm vậy.”[21] Mấy lời miêu tả thơ ngây của Đản tựa như những câu thai đố mà chàng Trương phải giải. Chỉ có điều do hướng giải đoán không rõ, cả người “đố” lẫn người “giải” đều chăm chắm vào một con người nào đấy có thực (xuất nhân): với Đản, đó là cha; với chàng Trương, đấy hẳn phải là gian phu.[22] Trong tình huống đặc biệt này, kiến văn hạn hẹp, cùng tính cả ghen của Trương đã khiến chàng lạc lối. Trương tri giác, lý giải sai lầm tình huống nọ, ngỡ mình là nạn nhân, là người bị bội phản “Đến khi nghe lời con nói, thời chưng ngờ sự cuốn đay xin lửa kia rễ bám càng sâu gắn mà chẳng khả cởi vậy.”[23] Chàng thụ khổ, quy hết tội tình cho vợ. Kênh giao tiếp song phương giữa hai vợ chồng bị cắt đứt, chỉ còn là đơn tuyến. Trương nhiếc móc vợ, “sỉ nhục nhiều phương, đòi thời ruồng đuổi”; nhưng khi nàng Vũ “xin giãi lòng ấy, mặc cởi lo ngờ,”[24] Trương nín lặng, tự dằn vặt mình và làm khổ người, “song dõi hỏi thửa lời ấy bởi đâu chưng lại, thời giấu lời con chẳng nói,” “láng giềng chưng bảo, họ hàng chưng nói, chẳng nghe vào tai vậy.”[25] Đến đây, lẽ ra bé Đản - người phát ngôn của thông tin tày trời nọ - phải được xét hỏi “ba mặt một lời” để vãn hồi sự câu thông cần thiết giữa hai vợ chồng. Không ai hỏi đến, Đản lặng thinh như chưa từng nói ra chi tiết oan khiên nọ. Đản, nhân chứng cuối cùng, giờ như một kênh thông báo vô hiệu hóa, tắt sóng lặng câm. Sự im lặng và khinh bạc của chàng Trương đã đẩy nàng Vũ đến cực điểm bi phẫn. Trước kia, cả thời gian dài, nàng vò võ với một chiếc bóng, dẫu câm lặng, nhưng vẫn là nguồn động viên, an ủi nàng sống. Dẫu bóng câm lặng, đối thoại tưởng tượng giữa người và bóng vẫn có thể thiết lập được, dựa trên cơ sở hợp nhất và phân thân: Thiếp với chàng tuy hai mà một; vậy nên, nhìn bóng mình thiếp tưởng dáng ai trên tường. Thế nhưng, sự im lặng của chồng nay đẩy nàng đến quyết định quyên sinh. Và cũng như Rokujo trong Nguyên thị vật ngữ, hay Chen Cai trong Cái bóng, thái độ ghen tuông cay nghiệt và mù quáng của chàng Trương đã giết chết người vợ đoan chính đáng thương.
Chiếc bóng -tấm lòng yêu thương ->trở thành nguyên nhân của nỗi oan bi kịch.
Bao nhiêu công sức, tâm sức chắt chiu để vun đắp gìn giữ cái gia đình bé nhỏ đã trở nên hoàn toàn vô nghĩa, nàng đã trắng tay, bơ vơ, không lối thoát, nên tìm đến cái chết ...
Thực chất là Vũ Nương đã bị bức tử, nhưng nàng đi đến cái chết thật bình tĩnh : tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng ...
Cái chết ấy là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, tối tăm.
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi lo luỵ đến nàng.
Chứng quả đã dôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng mấy lọ đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."
(Lê Thánh Tông)

-->Chiếc bóng giờ đây khiến ta hoài nghi nó có phải là một thế lực vô hình ngăn cản con người ,đặc biệt là người phụ nữ đến với hạnh phúc ...

"Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến hạnh phúc đôi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn.

nguồn: vatgia
 
Top Bottom