[Văn 9]: Những bài văn về cảm nghỉ của em về đời sống và các nhân vật trong SGK

P

pety_ngu

trong sgk là một nhân vật thuộc 1 truyện (vd ; phương định trong những ngôi sao xa xôi của Lê Miinh Khuê ) hay là tất cả các nhận vật có trong tất cả các truyện đã học
 
T

thanhdatkien

trong sgk là một nhân vật thuộc 1 truyện (vd ; phương định trong những ngôi sao xa xôi của Lê Miinh Khuê ) hay là tất cả các nhận vật có trong tất cả các truyện đã học
tất cả các nhân vật có trong SGK mà mỗi nhân vật post một bài lên nha các anh chị nhớ giúp em nha
 
P

pety_ngu

phương định

Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất, không chỉ các chàng trai mà các cô gái thanh niên cũng xung phong ra chiến trường, tham gia vào cuộc chiến tranh để dành lại độc lập cho dân tộc. Đó cũng chính là đề tài gợi nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ. Với khả năng sáng tạo và xây dựng hình tượng sống động cùng với những ngày tháng lăn lộn nơi chiến trường, Lê Minh Khuê đã khắc họa thành công hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn với những vẻ đẹp kì diệu của tâm hồn, lòng dũng cảm và tình đồng đội thân thương qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Tiêu biểu là nhân vật Phương Định_ nhân vật chính của truyện
Lê Minh Khuê là một cây bút nữ chuyên viết truyện ngắn. Trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, ngòi bút của bà trong chiến tranh luôn hướng về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của bà viết về đề tài này. Tác phẩm được bà sáng tác vào năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc diễn ra hết sức ác liệt. Bài thơ là một bức tranh sinh động về cuộc kháng chiến với những ngôi sao mà ánh sáng của nó chiếu rọi trong lòng ta – ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đó là những cô trinh sát mặt đường giữa bụi mù Trường Sơn.
Truyện xoay quanh nhân vật chính là Phương Định – một cô gái thanh niên xung phong sống cùng đồng đội, Thao, Nho, trên cao điểm, giữa một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ tuy vất vả và nguy hiểm nhưng các cô vẫn có những giây phút hồn nhiên, thơ mộng của tuổi trẻ. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, Phương Định và Thao đã chăm sóc rất tận tình. Cũng là lúc có một trận mưa đá ào xuống, Phương Định được sống lại với niềm vui trẻ thơ và cô lại nhớ về thành phố và gia đình.
Phương Định có hoàn cảnh sống và chiến đấu rất khó khăn, gian khổ. Họ sống trên một cao điểm, trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn giữa mênh mông khói bụi và bom đạn hủy diệt của kẻ thù. Công việc của họ là “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Các cô phải đối diện với thần chết từng phút, từng giờ, “thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhip điệu chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ.Trong “lúc đơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn và làm việc có khi suốt đêm” thì các cô, tổ trinh sát mặt đường, phải chạy trên cao điểm cả ban ngày, dưới cái nóng trên 30 độ. Từ cao điểm trở về, mặt các cô ai cũng “hai con mắt lấp lánh”, “cười thì hàm răng lóa lên khuôn mặt nhem nhuốc”. Nhiệm vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, thể hiện phần nào hiện thực cuộc chiến đầy khắc nghiệt. Và cũng từ đó, ta thấy sáng ngời lên tinh thần yêu nước, đầy quả cảm của các cô gái thanh niên xung phong
Phương Định là một cô gái Hà Nội vào chiến trường. Ấn tượng đầu tiên về cô là vẻ bề ngoài đáng yêu, trẻ trung, xinh xắn và đầy sức sống. Cô có “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa lòa kèn”. Đặc biệt, cô có đôi mắt với ánh cái nhìn sao mà xa xăm. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm cô, hay “viết những thư dài gửi đường dây”, “mặc dù có thể chào nhau hằng ngày”. Phương Định cảm nhận được điều đó, cô cảm thấy vui và tự hào nhưng chưa dành tình cảm cho một ai. Cô chỉ thích ngắm mình trong gương và làm điệu hoặc có vẻ kiêu kì một cách đáng yêu khi thấy các đồng đội của mình tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đó.
Phương Định vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Cô mang theo vào chiến trường Trường Sơn đầy ác liệt cả những nét đáng yêu của một cô gái tuổi mới lớn, mang theo cả một tâm hồn mơ mộng, rất hồn nhiên, yêu đời. Cô mê hát. Sống trong hoàn cảnh ác liệt của bom đạn trên chiến trường Trường Sơn, lúc nào cũng cận kề với cái chết, cô vẫn không bỏ đi sở thích của mình. “Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng phải ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình “Tuy vậy, chị Thao vẫn say mê chép những lời bài hát mà Định bịa ra. Cô thích rất nhiều bài, “thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh..”Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có”. Cô hát trong những khoảnh khắc “im lặng” khi máy bay trinh sát rè rè trên đầu, khi cơn bão lửa sắp chụp xuống cao điểm. Cô hát để động viên đồng đội và cũng là để động viên chính bản thân mình, để gửi vào trong tiếng hát nỗi khát khao của tuổi trẻ, của người chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu dấu, được gặp lại người yêu sau bao nhiêu nhớ nhung, chờ đợi.
Phương Định sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư giữa gia đình và thành phố Hà Nội thân yêu. Gặp một trận mưa đá, ở cô lập tức toát lên một niềm vui con trẻ, niềm vui ấy nở tung ra, say sưa, tràn đầy. Cô nhặt những hạt mưa đá để rồi bâng khuâng ngơ ngác khi thấy nó tan biến bất ngờ, cũng nhanh như khi nó ập đến. “Tôi bỗng thẫn thờ, tiếc không nói nỗi...Tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố” Tất cả mọi kỉ niệm đẹp nhất ở thành phố Hà Nội, về mẹ, về tuổi thiếu nữ trong sáng, vô tư như ùa về, xoáy mạnh trong lòng cô gái. Chính những kỉ niệm đó đã làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.
Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật lên tinh thần dũng cảm, thái độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy. Điều đó được thể hiện cụ thể qua một lần phá bom trên cao điểm ở Trường Sơn. Sau những đợt thả bom của giặc, Định cùng đồng đội chạy lên cao điểm để làm nhiệm vụ, nơi vẫn còn có những quả bom chưa nổ. Không gian lúc đó vắng lặng đến phát sợ. Nhưng cô không hề sợ hãi. Cô có cảm giác như các chiến sĩ đang dõi theo mình, vì vậy mà cô cảm thấy an tâm hơn. Cô quyết định không đi khom, bởi một lý do rất đơn giản “Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới.” Cảm giác ấy vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt qua mọi hiểm nguy.
Phương Định “dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom”. Quả bom nằm lạnh lùng. Lưỡi xẻng thỉnh thoảng lại chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người vang lên, cứa vào da thịt cô. “Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành” Cách miêu tả của tác giả thật tài tình, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được âm thanh của hai vật bằng sắt chạm vào nhau rồi lại cảm thấy rùng mình như Định, càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, gan dạ của cô.
Những lúc đối mặt với quả bom sắt lạnh lùng, cô cũng có nghĩ đến cái chết. “Nhưng một cái chết rất mờ nhạt, không cụ thể”. Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Còn điều mà cô quan tâm lúc này là “liệu mìn có nổ không, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”Trong suy nghĩ của Định, cô luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt dù có phải hi sinh. Cảm xúc, suy nghĩ chân thật ấy của cô đã truyền sang người đọc nhiều đồng cảm, yêu mến, trân trọng và kính phục. Chính nhờ sự gan góc, dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã giúp Định thực hiện tốt công việc của mình. Một cô gái như muôn ngàn cô gái khác trên tuyến đường Trường Sơn, đang hàng giờ dệt nên những kì tích cho Tổ quốc thân thương: Những con đường bằng phẳng để các chuyến xe vượt Trường Sơn tiến vào Nam .
Công việc “chọc giận thần chết” đã trở nên quen thuộc với cô, là công việc hàng ngày, nhưng nó không làm cho tâm hồn cô trở nên chai lì, khô cứng. Ở Định, ta còn thấy thường trực một tình cảm đồng đội, đồng chí nồng ấm. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô vỗ về và chăm sóc cho Nho tận tình như một cô y tá khi Nho bị thương lúc phá bom: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi mình”, “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than”, “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt”. Sự chăm sóc tận tình của Định đã giúp Nho khỏe lại nhanh chóng. Ba cô gái thanh niên xung phong tuy với tính cách khác nhau nhưng họ yêu thương nhau và đối xử với nhau như chị em ruột thịt. Cô còn dành tình cảm trân trọng, yêu mến của mình cho những người chiến sĩ đang trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường. Trong suy nghĩ của cô, “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ.” Tình đồng đội, đồng chí của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô làm tốt nhiệm vụ của mình. Có được trang viết này cũng một phần xuất phát từ tâm hồn giàu tình cảm của cây bút Lê Minh Khuê.
Thành công nhất trong truyện là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Truyện được miêu tả theo ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính, tạo điều kiện để tác giả tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật chính, làm cho câu chuyện diễn tả một cách chân thật, tự nhiên cảm xúc, tâm trạng của những người chiến sĩ. Nhan đề truyện xuất phát từ ánh nhìn của Phương Định, những ngôi sao xa xăm trên bầu trời gợi nhiều cảm xúc. Bên cạnh đó, vẻ đep tâm hồn của ba cô gái thật lấp lánh, lãng mạn giữa hiện thực khắc nghiệt như những ngôi sao xa xôi, lấp lánh trên bầu trời cao rộng.
Trường Sơn là nơi thử thách ý chí, khí phách con người Việt Nam . Chính những con người như Phương Định, Thao, Nho đã xướng nên bài ca tuyệt đẹp của “những bông hoa trên tuyến lửa” anh hùng. Giữa sự ác liệt của chiến tranh, vẻ đẹp của họ vẫn tỏa sáng. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hòa bình đã tạo nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Họ vốn chỉ là những con người rất đỗi bình thường nhưng đã góp phần tạo nên những kì tích anh hùng cho dân tộc:
“Em là người thanh nien xung phong
Không có súng chỉ có đôi vai tải đạn
Giữa tầm đạn thù tấm lòng dũng cảm
Em vượt đường dài tiếp thêm lửa chiến công”
Tóm lại, truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong mọi người hình ảnh tuyệt đẹp của những cô gái thanh niên xung phong thời kháng chiến chống Mỹ với tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan. Phương Định, tuy chỉ là một ngôi sao bé nhỏ, nhưng sẽ luôn tỏa sáng, sáng lấp lánh trên bầu trời Việt Nam . Các cô mãi là những hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến
nguồn net
 
P

pety_ngu

Dàn ý
A. Mở bài - Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu nhân vật Phương Định
- Nêu ấn tượng chung về nhân vật

B. Thân bài - Tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của Phương Định thời học sinh
- Tính nhạy cảm, mơ mộng, yêu ca hát từ lúc đi học và khi ở c trường
- Nét xinh xắn và hơi điệu được cánh pháo thủ và lái xe quan tâm
- Chất anh hùng trog công việc thường ngày của cô
- Tinh thần dũng cảm trong cuộc phá bom đầy nguy hiểm


C. Kết bài - Cảm nghĩ chung về nhân vật
- Liên tưởng, liên hệ, mở rộng, suy nghĩ



Bài làm



Trong kháng chiến chống Mĩ, con đường Trường Sơn, đã thành biểu tượng anh hùng của cuộc chiến đấu giành độc lấp tự do. Dưới mưa bom bão đạn của quân thù, con đường vẫn vươn dài về phía trước chở trên mình bao đoàn quân, đoàn xe rầm rập tiến về phía Nam. Để cho cái mạch máu Trường Sơn ấy luôn thông suốt, đã có hàng vạn thanh niện xung phong ngày đêm bám đường san lấp hố bom, phá bom nổ chậm. Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tướng đường TS máu lửa này. Những tác phẩm chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây đã gậy được sự chú ý của nhiều bạn đọc. Truyện ngắn:"Những Ngôi Sao Xa Xôi" là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Truyện viết về ba cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường TS đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc trong lòng người đọc.

Từ một Phương Định căng thẳng tột độ lúc phá bom, hiện ra một Phương Định trong niềm vui con trẻ "nở tung ra" , trước trận mưa đá bất ngờ kéo cô về vời tuổi thơ ngày nào. Cùng với trận mưa, những kỷ niệm thời thiếu nữ lại trào lên trong cô không gì ngăn nổi. Chúng "xoáy mạnh như song" với bao hình ảnh thân thương của gia đình, thành phố. Cô là người con gái Hà Nội có hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao kiều hãnh như đài hoa loa kèn. Đôi mắt cô được các anh lái xe bảo: "có cái nhìn xa xăm" vì pháo thủ lái xe hay hỏi thăm và viết những bức thư dài cho Phương Định cô có vẻ kiêu kì, làm điệu khi tiếp xúc với anh bộ đội. Nhưng trong suy nghĩ của cô những người đẹp nhất, thông minh can đảm, cao thương nhất là những người mặc quân phục có sao trên mũ. Là cô gái yêu đời, hồn nhiền giàu cá tính, thuở nhỏ đã hay hát. Cô có thể ngồi lên cửa sổ căn phòng nhỏ bé của mình, hát say sưa, ầm ĩ. Bàn học lúc nào cũng bừa bãi đền nỗi mẹ phải mắng. Sống trong cảnh ác liệt, cái chết kề bên, Phương Định lại càng hay hát những bài thành khúc, những điều dân ca quan họ, bài ca Chiu-sa, bài dân ca ý. Định còn bịa ra lời bài hát. Định hát trong những khoảnh khắc im, hát để động viên Nho - Thao và bản thân. Hát khi máy bay rơi, bom nổ. Tiếng hát át đi tiếng bom của những con người trong tổ trinh sát. Trong kháng chiên chống Mĩ, tiền tuyến vẫy gọi, hàng vạn cô gái mang chí khí Bà Trưng, Bà Triệu xung phong ra tiền tuyến trong đó có Phương Định. Con đường TS huyền thoại được làm nên bằng sương máu, mồ hôi và bao sự tích phi thường của người con gái Việt Nam anh hùng. Tác phẩm đã tái hiện chân thực diễn biến tâm lí nhân vật của Phương Định trong một lần phá bom. Cô dũng cảm bình tĩnh tiến đến quả bom, đàng hoàng mà bước tới cùng xới xẻ đào đất có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom, có lúc Phương Định rùng mình cảm thấy tại sao mình lại làm chậm thế. Rồi bom nổ vàng óc, đất rơi lộp bộp, mắt cay mãi mới mở được, cát lạo xạo trong miệng. Đó là cuộc sống thường nhật của họ, Phương Định cho biết :" Tôi có nghĩ đến cái chết nhưng đó là cái chết mờ nhạt trọng cụ thể". Phương Định cùng Nho, chị Thao sáng ngời trong khói bom lửa đạn. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với những năm tháng lòng người. Phương Định là cô gái dũng cảm trong lửa đạn, giàu tình yêu thương đồng đội trong sáng mộng mơ, thích làm duyên như bao cô thiếu nữ ngày xưa.. Họ có mặt trên những trọng điểm của con đường TS chiến lược và trái tim rực đỏ của họ - Những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xôi mãi lung linh tỏa sang.

Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta những hình ảnh tuyệt đẹp về chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Nhân vật PĐ đã để lại trong lòng người đọc một nỗi niềm đồng cảm yêu mến và kính phục về những phog cách tốt đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam. Những PĐ gần xa vẫn tỏa sáng trong hồn ta với bao ngưỡng mộ.

 
P

pety_ngu

Bé thu

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu.


xem thêm tại đây
http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=39853
 
C

candyxbaby

Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết về chuyện ngắn . Những sáng tác của ông thường mang ý nghĩa giáo dục con người đạt đến giá trị chân – thiện – mĩ .Vì vậy đọc truyện “Lặng lẽ Sa Pa” trích trong tập truyện “Giữa trong xanh” , chúng ta có thể thấy nhà văn đã giải thích hình ảnh nhân vật anh thanh niên là mẫu người : chân chính, cuộc sống cao đẹp, tình cảm thân thiện, phẩm chất ngời sáng . Phải hiểu đc đặc điểm nv “anh thanh niên” mới thấu tỏ giá trị cuộc sống, làm người như thế nào là đúng .
“Lặng lẽ Sa Pa” đúng với tên gọi của nó .Tác phẩm nêu tên nv anh thanh niên cũng chỉ là 1 cái tên chung nhất , âm thầm đúng với Sa Pa lặng lẽ . Chính sự âm thầm này càng làm nổi bật ý nghĩa của 1 con người : say mê trong công việc , chân thành với tình cảm, sống đẹp đúng lý tưởng và khiêm tốn trong đức tính .
Anh thanh niên làm việc trên đỉnh Yên Sơn với độ cao 2600m . Anh làm công tác khoa học đó là cán bộ “khí tượng thủy văn” lập nên những bản dự đoán thời tiết, phiêm vật lý địa cầu nghĩa là đo chấn động của vỏ trái đất . Đây là nơi làm việc đúng như bác tài xế nói :“nơi cô độc nhất thế gian” . Anh thanh niên chọn nơi làm việc này 1 cách hoàn toàn tự nguyện . Bởi lẽ anh đã nghĩa sống ở thành phố để làm việc , tất nhiên đầy đủ tiện nghi, điều kiện phấn đấu. Thế nhưng anh nghĩ nếu như ai cũng chọn cho mình 1 nơi làm việc thuận tiện thì thử hỏi còn những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng cao thì ai sẽ là người khai thác, làm việc nơi đây ? Trong khi thiên nhiên vẫn hằng ưu đãi con người, nơi đó còn đầy những kim cương, quặng mỏ đang cần bàn tay con người kiếm tìm, đãi nhặt . Sự suy nghĩ của anh thanh niên thật là chín chắn, ko bất đồng nhất thời . Và đó là 1 sự ý thức về trọng trách của anh thanh niên biết lắng nghe tiếng gọi của giang sơn , đất nước . Tuy nhiên mấy ai có đc nhận thức suy nghĩ như anh thanh niên .
Công việc của anh rất vất vả, cực khổ , thử thách vẫn luôn rình rập . Thời khóa biểu của anh liên tục, khối lượng công việc dày đặc, công việc thường xuyên, để hoàn thành những thao tác của người cán bộ khoa học . Chẳng vậy anh thanh niên đã tâm sự với nhà họa sĩ : “Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc 1 giờ sáng , Rét ,bác ạ . Ở đây có cả mưa tuyết đấy .” Đúng vậy , Với tốc độ cao của vùng Tây Bắc thật là lạnh lẽo, giá rét . Vào những thời điểm đêm khuya như thế , chỉ thích nằm yên trong nhà chìm chăn rồi ngủ cho sướng . Nhưng anh ko cho phép mình lơ là, sao lãng công việc mặc dù ko có ai kiểm tra đôn đốc anh nhưng vẫn là con người tự nguyện, tự giác nên anh đã ý thức công việc của mình . Anh nghĩ rằng chỉ 1 phút, 1 giờ ko tuân thủ kỷ luật , coi thường công việc sẽ dễ dẫn đến hậu quả bản dự đoán thời tiết sai lệch . Đồng bào dưới xuôi ko chủ động đc sinh hoạt trong đời sống . Nghĩ công việc 1 cách thận trọng như thế nên anh đã thực hiện công việc 1 cách hữu hiệu . Chính anh đã phát hiện ra “đám mây khô ” nhờ đó vào ngày ấy tháng ấy quân ta đã bắn hạ những máy bay của địch . Phải là 1 con người có đc tinh thần tự ý thức cao, chấp hành kỷ luật, bản lĩnh lập trường thì mới có thể vượt qua mọi gian nguy, làm chủ thử thách , khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ 1 cách xuất sắc như anh thanh niên .
Tưởng chừng 1 con người làm việc trên vùng cao, bốn bề cây cối giá lạnh sẽ khiến cho tình cảm của anh thanh niên đối với mọi người trở nên lạnh nhạt, thờ ơ …. Nhưng ko anh thanh niên tỏ ra là 1 con người rất là giàu tình cảm, chân thành , thân thiện đối với mọi người .
Anh thanh niên đã có những giây phút đúng như bác tài xế đã nói “thèm người” chính tình cảm ấy khiến anh có những hành động thật đáng yêu như dùng cây gỗ để tránh ngang đường . Từ đó mỗi lần có đoàn xe đi lên Sa Pa đều đến nơi đây thường dừng lại nghỉ chân, uống nước . Nhờ vậy anh thanh niên mới có dịp để trò chuyện tiếp cận với mọi người .
Trong cuộc trò chuyện với đoàn người dưới xuôi lên , mặc dù chỉ mới lần đầu được tiếp chuyện với họ . Nhưng trong 30 phút ngắn ngủi ấy anh thanh niên đã chứng tỏ cho đoàn người hiểu đc nhân cách cao quý của 1 con người sống vùng lặng lẽ Sa Pa mà tính cách lại sôi nổi , nhiệt thuyết . Anh đã trò chuyện vui vẻ với mọi ng` . Anh thanh niên còn tỏ ra chu đáo qua việc gửi cả tam thất cho bác gái bác tài xế để ngâm rượu uống. Tặng bác họa sĩ , cô kĩ sư, bác tài làn trứng để ăn trưa . Phong cách nói chuyện của anh thanh niên cũng thật chân thành cởi mở khiến cho đoàn ng` ấy luôn tỏ ra thân thiện , rất dễ hòa đồng, gần gũi .
Mặc dù sống nơi vùng cao nhưng anh thanh niên hoàn toàn chủ động cuộc sống của mình . Nơi vùng cao ấy , anh thanh niên có thể đc Đảng và nhà nước sẽ có chế độ phụ cấp ưu đãi nhưng anh thanh niên đã tự chủ cuộc sống của chính mình = những công việc để cải thiện cuộc sống như : trồng rau, nuôi gà để phục vụ cho bữa ăn thường ngày của chính mình . Ngoài ra cuộc sống của anh thanh niên càng thêm cao quý , tốt đẹp hơn khi tâm hồn yêu đời của anh qua việc trồng thêm vườn hoa rực rỡ để điểm tô cho cuộc sống thêm những sắc màu , tình cảm con ng` thêm lòng yêu thiên nhiên , say sưa trước cảnh vật .
Hơn nữa, cuộc sống của anh ngày càng đc hoàn thiện và toàn diện thì anh thanh niên biết tìm đến những cuốn sách khoa học đời sống để tự trao dồi công việc, năng lực chuyên môn của mình . Anh đã coi sách như là “ những ng` bạn hiền đáng quý ” . Thế nên mỗi khi dưới xuôi lên đây, bác tài xế thường gửi tặng hoặc mua cho anh những quyển sách – những ng` bạn tinh thần thật đáng quý .
Anh thanh niên thật đúng là 1 con ng` biết nhìn nhận chính mình 1 cách đúng đắn. Đúng lý ra những việc làm của anh , cuộc sống của anh đã đủ để nhà họa sĩ khắc họa chân dung “lao động chân chính ” . Nhưng khi biết nhà họa sĩ đang tạo hình vẽ mình thì anh đã từ chối “Bác đừng tốn công vẽ cháu để cháu giới thiệu những ng` khác còn xứng đáng hơn và bác sẽ rất thích những ng` ấy như là : ông kĩ sư trồng su hào dưới Sa Pa, nhà cán bộ khoa học khí tượng đang làm việc trên đỉnh Phan Xi Păng cao 3142m đã 11 năm trời bám sát với hiện trường để hoàn thành bản đồ chống sét . Đó là những con ng` lý tưởng .” Qua đó nv anh thanh niên càng để lại cho ng` đọc những ấn tượng cao đẹp, trong sáng .
Qua những lý lẽ phân tích nêu trên , chúng ta đều cảm nhận rằng nv anh thanh niên thật đúng là con ng` mẫu mực trong mọi lĩnh vực : công việc , tình cảm, đời sống, phẩm chất . Chính những nét đẹp ngời sáng ấy đã trở thành tấm gương tiêu biểu cho tầng lớp thanh thiếu niên noi theo . Hình ảnh nv anh thanh niên đó còn là 1 tấm gương cho con ng` tri thức khoa học : biết nghĩ – dám làm, làm việc hữu ích , kết quả thật đáng tôn trọng
 
H

heroineladung

Tiêu đề: Cảm nhận về nhân vật ông Sáu- Chiếc lược ngà
Bài làm:

Như ta đã biết, ông Sáu là một trong hai nhân vật chính trong tác phẩn " Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.Ông có một cuộc sống bình thường như bao người dân bình thường khác sống trong thời kì lúc bấy giờ : cuộc sống bị chi phối bởi chiến tranh. Nhưng ở ông vẫn toát lên lòng yêu nước; lòng yêu thương vợ con, gia đình.Có lẽ bởi vậy mà ông Sáu đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng cũng như tình cảm sâu sắc.
Như đã nói trên , ông Sáu là một trong hai nhân vật chính của tác phẩm.Nhân vật này được tác giả xây dưụng một cách khá công phu để qua đó xây dưụng chủ đề của tác phẩm : những đau thương và tình người trong chiến tranh.
Ông Sáu đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đó là những ngày tháng không thể nào quên của ông Sáu cũng như của toàn nhân dân Việt Nam.Vì lòng yêu nước và vì độc lập của dân tộc mà ông Sáu đã ra đi để lại người vợ trẻ và đứa con nhỏ còn chưa biết gọi ba. Trong ông luôn thường trực nỗi nhớ nhà , nhớ con da diết.Với ba ngày phép, ông đã hi vọng được nghe tiếng ba từ đứa con gái bé bỏng của mình. Nhưng ông lại không đạt được mong ước nhỏ nhoi ấy. Tình cha con của ông với bé Thu bị chia cắt. Tại sao ư? Đó là bởi vết sẹo dài trên mặt ông. Vết sẹo ấy là hậu quả mà chiến tranh đã để lại trên khuôn mặt ông. NỖi khát khao. tình cha con của ông không được trọn vẹn. Đó phải chăng là một tội ác nữa của chiến tranh : chia cắt tình cảm cha con. VÀ rồi đến khi bé Thu nhận ông rồi, ông lại phải lên đường ngay. Lí do ở đây lại là chiến tranh. Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh. Sao cuộc đồi và số phận của ông Sáu lại đều do chiến tranh chi phối như vậy. Thật quá phi nghĩa. Chiến tranh- nó chỷ mang lại cho con người đau khổ mà thôi. Mà đâu chỷ ông Sáu mới phải chịu sự chi phối của chiến tranh, cuộc đời ông còn giống với rất rất nhiều những người dân Việt Nam khác nữa. Điều đó làm cho ta cảm thấy đau xót thay cho những cảnh đừoi bất hạnh trong chiến tranh và làm ta nhận ra sự phi nghĩa, sự phi nhân tính của chiến tranh.
Có lẽ bởi vì cuộc đời và số phận bị chi phối bởi chiến tranh mà trong ông Sáu là một tình yêu nước tha thiết.Ông đã gạt bỏ tình riêng của mình để lên đường cứu quốc. Có được mấy người cha bỏ lại đứa con nhỏ của mình để lên đường tìm lại độc lập tự do dân tộc. Có được mấy người cha khi vừa mới được đứa con yêu quý của mình nhận làm ba đã lên đường ra mặt trận ngay. Không phải là ông sợ nếu như ở lại lâu hơ sẽ bị phạt mà bởi ông lo nếu như cso việc gấp ở mặt trận mà lại không có mặt thỳ không thể hiến sức mình để bảo vệ cho Tổ quốc được. Ông yêu nước. Điều đó không ai có thể phủ nhận đươc. Và chính điều đó đã làm cho người đọc cảm thấy khâm phục nơi con người ông vì ông đã quên đi cái tình riêng để cống hiến cho cái lớn lao hơn, cho cái tính yêu chung của cả dân tộc.
Có lẽ rằng nổi bật nhất nơi con người ông không phải là tình yêu nước mà đó là tình yêu gia đình, đặc biệt là đứa con gái bé bỏng của ông. Khi được nghỉ phép về thăm nhà, ông đã không thể chờ đến khi ghe cập bến mà đã nhảy phắt lên bờ gọi con. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ. Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Ông chạy đến bên con, gọi con bằng tất cả tâấ lòng mình. Nhưng, nhưng và nhưng tình cảm nỗi nhớ của ông như rơi xuống vực thẳm. Bé Thu sợ hãi và chạy vút vào nhà khi vừa thấy ông. Chắc chắn rằng trong ông lúc đó là sự đau khổ đến tột cùng. Ông yêu con lắm nhưng nó có biết không. Nó đã bỏ ông lại với sự cô đơn mà ông không thể ngờ tới. Trong ba ngày phép ông đã cố gắng rất nhiều để được nghe một tiếng ba từ bé Thu. Nhưng những gì ông mong đợi dường như đều trở nên vô vong. Bé Thu cứng đầu, dứt khoát không chịu gọi ông là ba. Trong ông Sáu là sự thất vọng vô cùng.Và rồi đến tận ngày ông đi, bé Thu vẫn cứ khép mình ở một góc nhà, không chịu tạm biệt ba - con người mà đi rồi có lẽ sẽ không trở về. Và rồi đến khi ông Sáu mở lời trước, tạm biệt bé Thu trước, điều bất ngờ đã xảy ra. Thu ôm chầm lấy ba mà gọi tiếng ba. Tiếng Ba đã dồn nén từ tám năm nay. Mọi người chứng kiến câu truyện đều xúc động trước tình cảnh đáng thương của hai cha con. Có lẽ sự xúc động ấy truyền cả sang cho người đọc. Người đọc xúc động bởi vì cuối cùng ông Sáu cũng đã được nghe thấy tiếng ba mà ông hằng mong mỏi, xúc động vì tình phụ tử của hai cha con ông thật quá đẹp đẽ và thiêng liêng.Nhưng rồi đến lúc được con nhận, ông lại phải rời khỏi nhà ngày. Ông đã hứa với Thu rằng sẽ làm cho cô bé một chiếc lược ngà. Ông yêu con mình lắm, ông không muốn xa nó đâu nhưng vì tiếng gọi của tổ quốc, ông lại phải xa con lần thứ hai. Ở ngoài chiến khu, ông vẫn nuôi trong mình nỗi yêu và nhớ con da diết. Ông ngồi làm chiếc lược cho con gái một cách đầy tỉ mỉ . Cái tỉ mỉ ấy có lẽ cũng gióng với cái tình yêu thương da diết ông dành cho con. Rồi đến khi làm xong chiếc lược, cứ mỗi lần rảnh rỗi là ông lại lâấ ra mà ngắ mà nghía cho thỏa nỗi lòng nhớ con da diết.Dù trong bất kể hoàn cảnh nào cuũn vậy thôi, ông luôn dành cho bé Thu tất cả những tình cảm thiêng liêng, đáng trân trọng nhất. Điều đó khiến cho ta thêm yêu quý con người này với vai trò là một người cha, cũng như xúc động trước những tình cảm mà ông dành cho con gái mình.
Khong chỷ cso thế, ta còn thấy ở ông Sáu là sự cam chịu. Ông xa nhà tám năm trời, chưa một lần về thăm nhà. Đối với nhiều người nếu rơi vào hoàn cảnh này thỳ chắc họ sẽ đảo ngũ mà về nhà với vợ với con. Nhưng với ông Sáu thỳ không. Ông vẫn cố chịu đựng, cố kìm nén cảm xúc của mình để làm nốt nhiệm vụ còn dang dở. Người đọc chắc hẳn thấy cảm phục trước sự chịu đuụng về tinh thần cũng như cố gắng vượt lên chính mình, vượt lên nỗi nhớ của bản thân trong con người ông Sáu.
Cuối cùng, một điều mà ít ai để ý thấy ở ông Saú. Đó là ông luôn vững lòng tin về chiến thắng của toàn dân tộc. Ông giao lại chiếc lược ngà cho ông Ba - người bạn đã cùng với ông về thăm nhà khi xưa- và mong ông Ba sẽ giao tận tay cho con gái mình chiếc lược ngà mà ông luôn giữ gìn cẩn thận. Ông Sáu chắc chắc rằng rồi một ngày đất nước sẽ hoàn toàn được độc lập và ông Ba sẽ gặp được bé Thu ngày nào và chiếc lược ngà sẽ được giao cho đúng chủ nhân của nó. Điều này cho ta thấy yêu mến con người này, con người tin vào dân tộc và cũng cảm thấy tiếc thương vô hạn cho một con người có tâm hồn đẹp đẽ như vậy mà phải hy sinh trên chiến trường gian khổ.
Có lẽ nhaâ vật để lại được những ấn tợng sâu sắc trong lòng người đọc là do cái nghệ thuật xây dựng nhaâ vật tài tình của tác giả Nguyễn quang sáng.nhaâ vật dã được tác giả xây dựng qua những tiìnhhuống dặc sắc, những tình huống đã làm cho nhân vật tự bộc lộ mình.Tác giả còn miêu tả nhân vật qua những tâm lí sâu sắc và cũng thật chân thực.Những tâm lí ấy , tác giả xây dựng được chân thực như vậy là bởi vốn sống phong phú của tác giả, vốn sống đã đem lại thành công cho tác phẩm này.
Ông Sáu với cuộc đời bị chi phối bởi chiến tranh và tình cảnh éo le ấy đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm. Qua đó người đọc cũng hiểu thêm về những người đi trước cũng như thêm khaâ phục, kính trọng, tự hào về họ - những con người đã cống hiến hết mình vì tổ quốc Việt Nam yêu dấu.



:) Chúc em học tập tốt nhé! :)
 
H

heroineladung

Nhân vật Vũ Nương.

Bài làm:

Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không hiếm những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương là hai yếu tố thực và truyền kì không đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để xây dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn học). Bằng mối liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác phẩm. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.

Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.

Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó, nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như trong các truyện cổ dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng rất thực.

:) Chúc em học tập tốt nhé! :)
 
T

thanhdatkien

có ai bik viết phân tích hoặc cảm nhận về nhân vật chó sói và cừu trong thơ của la-phong-ten ,con cò,mùa xuân nho nhỏ viếng lăn bác,sang thu,mây và sóng,nói với con,bến quê,Rô-Bin-sơn ngoài đảo hoang.
có ai viết đc thì post lên cho tui tham khảo với nha













[YOUTUBE]http://www.youtube.com/watch?v=z2OOcqIP0uA[/YOUTUBE]
 
H

heroineladung

CẢM NHẬN BÀI THƠ "CON CÒ" CỦA CHẾ LAN VIÊN




Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế mà từ lúc nào không biết, hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách bình thường nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó. Và cũng có khi hình ảnh cò được mượn để ví cho thân phận người phụ nữ thấp bé trước xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ "Con cò" ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ. Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về tình mẹ.
Khổ thơ đầu được viết một cách nhẹ nhàng, êm, ái:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ ru
Có cánh cò đang bay
"Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng"
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
"Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng..."
Ngủ yên! ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.
Đúng là đứa trẻ còn quá bé bỏng để hiểu được thế nào là "con cò", "con vạc", thế nhưng ngay từ giấc ngủ đầu nôi, người mẹ đã nhẹ nhàng đem cánh cò đến với con bằng lời ru dịu dàng, nồng ấm. Điệp từ "con cò" được nhắc đi, nhắc lại ở câu bốn đến câu tám của khổ thơ đầu như một điệp khúc ngân nga, nhịp nhàng. Người đọc cảm nhận được trong thơ có nhạc. Nhạc điệu là lời ru của mẹ đối với con, là lời kể, tả của mẹ về hình ảnh cò trong dân gian cho con nghe. Hình ảnh "con cò bay la,..... bay lả", từ "cổng phủ" cho đến "Đồng Đăng" miêu tả hình ảnh cò thung dung bay lượn một cách tự do trên khắp mọi nẻo quê hương, trở thành biểu tượng gắn bó với làng quê Việt Nam. Hình ảnh cò "xa tổ", cò "ăn đêm", sợ gặp "cành mềm", sợ bị "xáo măng" gợi hình ảnh cò lẻ loi một mình đi kiếm mồi trong đêm tăm tối có muôn vàn cạm bẫy đang chực chờ phía trước. Phải chăng, tác giả muốn nhắc đến thân phận yếu đuối của người phụ nữ và nỗi vất vả gian truân trong cuộc mưu sinh để nuôi con âm thầm, khi bên ngoài xã hội còn nhiều cạm bẫy đang chực chờ. Mặc dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ muốn hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê hương, đất nước, hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ muốn con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: "sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân". Đọc đến đây, ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh xẻ chia:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý nghĩa của hình ảnh cò gắn bó mật thiết và trở nên người bạn đồng hành đối với cuộc đời con trẻ từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành.
Đoạn đầu từ:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò "đứng ở quanh nôi", rồi cò "vào trong tổ"; còn có ngủ thì cò mới ngủ. Hình ảnh cò tới đây không còn là hình ảnh con cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn thứ hai:
" Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân"
là hình ảnh đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban đầu chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, người mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi chân chính mình. Có thể thấy: ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng dần dà, cánh trắng cò chỉ bay theo gót chân con. Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình thương của mẹ dành cho con đã có cách thể hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con nữa, mà chỉ đồng hành bên con, dõi theo mỗi bước chân con. Mẹ muốn con tự đi trong cuộc đời bằng đôi chân của chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân con mới vững chãi, không sợ bị vấp ngã. Ta cảm nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa phong phú, cách thể hiện đa dạng. Một lần nữa, ta hiểu thêm về mẹ, chợt nhận hối hận ra ta cũng đã có lúc hiểu lầm về mẹ. Đoạn thứ ba nói lên hình ảnh cò-hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức, hóa nên tâm hồn phong phú cho con người khi trưởng thành:
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn là nguồn cảm xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự nghiệp. Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người.
Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nên xúc động với người đọc bởi lời mẹ chân tình, tha thiết:
Dù được gần con
Dù ở xa con
Lên rừng, xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn, vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con.
Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng thành, có khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ, là điểm tựa cho con bởi:" con dù lớn vẫn là con của mẹ". Thế nên "đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con". Có biết bao nhiêu thứ tình cảm trên đời, nhưng có tình nào bao la, sâu sắc và vô tận như tình mẹ dành cho ta.
Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lời ru à ơi:
~~> Còn tiếp em nhé! Dài quá! :D
 
C

candyxbaby

Bến quê” là tình cảm mà Nguyễn Minh Châu đã gởi gắm qua nhân vật Nhĩ, tình yêu. Nhĩ - một người từng đi đến khắp nơi tận cùng của Trái đất nhưng đến cuối đời, căn bệnh hiểm nghèo buột chân anh vào chiếc giường bệnh, không thể nhúc nhích được. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, anh mới nhận ra những nét gần gũi, bình dị của quê hương mình.
Vào buổi sáng đầu thu, nằm trên giường bệnh cảnh vật thiên nhiên hiện ra trước mắt anh đẹp biết bao. Nhĩ đưa mắt nhìn từ gần ra xa, từ thấp lên cao qua ô cửa sổ nhà mình. Mấy bông hoa bằng lăng như đậm hơn. Thấp thoáng phía xa là con sông Hồng với những tia nắng chiếu xuống, nước sông có màu vàng thau đẹp lạ thường. Mọi thứ tưởng chừng rất đỗi quen thuộc lại trở nên hết sức lạ lẫm trong mắt Nhĩ- Cảnh vật đẹp quá làm Nhĩ cứ ngắm hoài một cách say mê. Bỗng Nhĩ thấy “vòm trời như cao hơn”, “dòng sông như rộng ra’. Cảnh vật vẫn hiện hữu bao lâu nay như thế đấy chứ? Đó chỉ là cái nhìn của một con người có dự cảm sắp phải đi xa, đến một nơi rất xa, xa lắm…. Phải chăng Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác của mình một điều: mình không còn sống được bao lâu nữa? Dự đoán của Nhĩ như thực hơn, rõ hơn sau những câu hỏi anh đã hỏi Liên- vợ mình: “Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi nhỉ?”. Hình như Liên đã hiểu những gì Nhĩ đang nghĩ nên chị không trả lời. Không phải ngẫu nhiên mà những bông hoa bằng lăng trong mắt Nhĩ trở nên đậm sắc hơn, tiếng đất lở ở bãi bồi bên kia sông lại vang đến tại Nhĩ hay Nhĩ hỏi Liên nhưng câu như thế nó dự báo về quãng đời còn lại của Nhĩ một cách thật kín đáo, thầm lặng. Những hình ảnh mang tính biểu tượng được Nguyễn Minh Châu sử dụng khá thành công.
Một con người luôn đi đến những nơi xa lạ như Nhĩ mà lại bị bó chân trên giường bệnh thì không đau khổ nào bằng. Nhưng chính những ngày này Nhĩ mới được sống bởi lẽ anh đã nhìn rõ được hình ảnh của quê hương. Đó là những bông hoa bằng lăng, là con sông, là bãi bồi, là vòm trời quê hương… Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên mặc áo vá. Người vợ mà mà bấy lâu nay anh chưa quan tâm hết mực nay hiện ra trước mắt anh hình ảnh, một dáng dấp tần tảo, chịu đựng, giàu đức hy sinh. Mọi sinh hoạt của Nhĩ đều nhờ vào sự chăm sóc của Liên. Đến lúc này anh mới thấy thương và yêu vợ mình hơn bao giờ hết. Dù bao năm tháng đã qua đi nhưng nét đẹp của Liên không hề thay đổi cũng như quê hương vậy, vẫn chan chứa nghĩa tình.
Quê hương mình sao đẹp thế? Nhĩ càng ngắm càng yêu quê hương, yêu thương những gì gần gũi, bình dị của quê mình. Khát khao cuối cùng của Nhĩ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng nhưng anh biết điều này không thể. Anh đã nhờ con anh- Tuấn thực hiện ước nguyện này giúp anh. Nhưng nghịch lý thay! Con anh cũng không làm được điều mà cha mình mong muốn. Tuấn chưa hiểu được ý muốn của cha và ra đi một cách miễn cưỡng. Và anh sa vào đám phá cờ thế trên đường để thoả mãn nhu cầu ham chơi, thích khám phá của mình. Nhĩ không trách Tuấn bởi lẽ anh cũng từng như thế. Hoạ chăng chỉ có những người từng trải như anh mới hiểu hết được sự đời, mới thấy được những gì mình cần phải làm? Lúc này, Nhĩ mới nhận ra một triết lý. Con người khó tránh khỏi cái “vòng vèo”, “chùng chình” trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Những nghịch lý trong cuộc đời mỗi người không ai có thể lường hết được. Và hai tình huống nghịch lý trong truyện này cũng là một minh chứng để mỗi người biết cách sống tốt hơn, sống đẹp hơn.
Mong ước cuối cùng của Nhĩ không thể thực hiện được. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ một cách xa xăm, đầy mê say. Anh mãi mê hướng mắt theo cánh buồm. Hành động cuối cùng của Nhĩ: “đu mình ra ngoài cửa sổ, đưa bàn tay ra ngoài vẫy vẫy như đang ra hiệu cho một ai đó” có vẻ kỳ quặc. Nhưng có thể Nhĩ đang nôn nóng thúc giục con trai mình hãy nhanh chóng để lỡ chuyến đò; hay đó là một sự đánh thức con người hãy sống khẩn trương, sống có ích, đừng sống vô bổ và tránh xa những cái “vòng vèo”, “chùng chình” trong cuộc đời. Nhưng rồi con đò cũng cập bến và Nhĩ cũng ra đi trong nổi niềm tiếc nuối, ân hận.
“Bến quê”- nơi neo đậu cuối cùng của mỗi con người. Nhĩ đã mãi mãi vào cõi vĩnh hằng nhưng trong anh còn chứa bao tiếc nuối. Hoàn cảnh đặc biệt đã đánh thức Nhĩ để anh nhận ra được những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương, để anh thêm yêu quê hương mình. Con người ta ai cũng thế, bao lần vấp ngã trên đường đời nhưng chủ yếu là họ có vực dậy mà đi tiếp không. Nhân vật Nhĩ trong truyện đã theo duổi những ước mơ xa vời nơi chân trời tươi đẹp nhưng anh lại đánh mất hình ảnh của quê hương, của người thân. Đến lúc Nhĩ nhận ra mọi sự việc thì đã quá muộn màng. Cuộc sống đối với Nhã chỉ toàn là vô vị chỉ khi cuối đời thì phần người chang chứa thi vị trong anh mới thực sự rõ nét. Dù mãi mãi lìa xa quê hương nhưng anh được nằm dưới khoảng đất yêu thương của quê mình, được đất mẹ che chở đến ngàn thu, đây cũng là một niềm hạnh phúc.
Truyện ngắn “Bến quê” khép lại để cho người đọc cảm thấy ngậm ngùi cho cuộc đời một con người. Nhưng bài học triết lý sâu xa của truyện còn âm ỉ mãi. Trong cuộc sống có bao lần ta mắc phải cái “vòng vèo”, “chùng chình” của đường đời, hãy sống sao cho thật có ích, phải biết trân trọng những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương bởi lẽ dù cho ta có đi đến nơi nào thì quê hương vẫn là điểm dừng chân cuối cùng của cuộc đời mỗi con người. Tình yêu quê hương sẽ là nguồn sinh lực thúc đẩy mỗi chúng ta hướng tới những ước mơ, khát vọng đích thực trong hương thơm lộng gió của cuộc đời.
 
H

heroineladung

~~~> Tiếp bài "Con CÒ":

À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Ngủ đi! Ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi.
Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ.
Lại một lần nữa các cụm từ:"ngủ đi", "cánh cò, cánh vạc", "nôi" được nhắc lại nhằm gợi về kỉ niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng liêng trong tâm thức của mỗi người.
Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẹ con. Ông đã thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trau chuốt.
Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được. Thế nhưng, với bài thơ "Con Cò" của Chế Lan Viên, ta như được trãi nghiệm và hiểu thêm một cách sâu sắc về ý nghĩa của tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người.

----------------------------------------------------------------

PHÂN TÍCH BÀI THƠ MÙA XUÂN NHO NHỎ


“Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)


Tố Hữu – nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải – đã viết trong bài “Một khúc ca xuân” những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Đó là “lặng lẽ dâng cho đời”. Còn Thanh Hải khi viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” trước lúc ra đi, không những đã giải bày những suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam.

Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. Chúng ta có thể coi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.

Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.

Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:


“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:


“Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn nhờ dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc trưng xứ Huế. Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ. Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm hay cả tiếng hót của những chú chim chiền chiện. Nhưng đối với khung sắc trời xuân thì giọt xuân càng làm tăng thêm vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.

Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:

“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trãi dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”

Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu.
Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:

“Đất nước bốn ngàn năm
Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.

Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:


“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.
Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau:


“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.

Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ - cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.

Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.

Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:


“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.

Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.


Chúc em học tập tốt nhé!


 
H

heroineladung

VIẾNG LĂNG BÁC

Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.

Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.

Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.

Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.

Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng


Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.

Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân


Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.

Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.

Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.

Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim


Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.

Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.


Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.

Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.

Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.

Chúc em học tập tốt nhé!
 
H

heroineladung

SANG THU

Mối năm có 4 mùa : xuân hạ thu đông. Nó tạo thành 1 vòng tròn tuần hoàn liên tiếp ko ngùng nghỉ hay mệt mỏi triền miên từ năm này qua năm , bất diệt. Đôi khi, sự chuyển giao giữa các mùa của cái vòng tròn ấy lại diễn ra quá nhanh khiến ta ko thể nào nhận ra đuợc. Họa chăng, có 1 vài tâm hồn đủ tinh tế và nhậy cảm để nhận ra dc cái thời khắc giao mùa ấy. và HT là 1 nguời có tâm hồn nhu thế. = những cảm nhận tinh tế và nhũng rung động tự đáy lòng mình, ông đã cho ra đời tác phẩm St - 1 tp khắc họa rõ nét cảnh vật đất trời khi thời khắc giao mùa !

ST đúng là St thật! Cái nhan đề bài thơ đã diễn tả đầy đủ Dc nội dung mà bài thơ thể hiện!. Có thể coi đây là dòng bút kí chân thành khắc họa chân thực cảnh vật đất trời lúc chớm thu:

bỗng nhận ra huơng ổi

phả vào trong gió se

suong chùng chình qua ngõ

hình nhu thu đã về

H*uơng ổi chín là nét đặc trung của mùa thu, chỉ riêng thu mới có. nó thay sự rực rỡ chói chang của nắng hè = sự mộc mạc, thanh khiết của mình. Cùng cúc vàng, huơng ổi chín thành sứ giả báo thu. Nhung hình nhu, huơng ổi xuất hiện nhan và bất ngờ quá khiến con nguời chảng mấy ai nhận ra để rồi trong 1 thoáng bất ngờ, Ht sững sờ nhận ra huơng ổi chín ” bỗng”. Ko lạnh lẽo nhu gió mùa đông bắc, ko bỏng rát nhu gió lào mùa hạ, gió se là loại gió chỉ mình thu mới có: nó chỉ nhẹ nhàng hây hẩy chỉ đủ sức nâng cho chiếc là vàng bay khi rời mình về với đất mẹ. Trong cái gió ấy, cái bµu ko khí ấy nòng nàn mùi ổi chín. huơng ổi thơm nồng và dày đặc trong ko khí” phả “. Trong cơn gió se lạnh của buổi sớm mai ta còn gặp 1 làn suơng mỏng truớc ngõ nhà. Nó cứ đu đẩy mãi ko thôi, nuẳ muốn tan đi cho mặt trời thức giấc, nửa lại vấn vuơng chẳng muốn rời ” chùng chình “. tới đây, ta mới thấy tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ của nhà thơ :” hình nhu thu đã về ”

Thu đã về với h*uơng ổi, với gió se với làn suơng mỏng truớc ngõ nhà. HT đã tận mắt chứng kiến và cảm nhận những điều đó mà sao vẫn ngỡ ngàng ko dám chắc ? Tâm lý con nguời ta thuờng ai cg vậy :với những gì tới quá nhanh, quá bất ngờ ta vẫn giữ trong lòng sự nghi hoạc ko dám khẳng định dù chứng cớ đã quá rõ ràng, đã phơi bầy ngay tuớc mắt. Với Ht có lẽ cũng vậy : vì thu tới quá nhanh nên ông ko khỏi ngỡ ngàng, hoài nghi. Dù lí trí đã kd quá rõ ràng song t/c lại còn mơ hồ chua dám chắc!!!

Khổ thơ thứ 2 là 1 loạt nhũng biểu hiện của mùa thu nhu lời khẳng định cho sự mơ hồ của HT :

sông đuợc lúc dềnh dàng

chim bắt đầu vội vã

có đám mây mùa hạ

vắt nủa mình sang thu

Mùa hạ _ mùa của nhũng cơn lũ dữ có vẻ đax đi qua. Dòng sông ko còn đỏ ngầu ùng ục kêu gào suốt ngày đêm há cái miệng = những cơn sóng dữ ra đòi nhấn chìm mọi thứ. Nó đã hiÒn hòa hơn, dòng nc xanh lững lờ chảy chậm rãi ko väi vàng nhu phong thái của 1 nguời đi bộ cứ dùng dàng ngắm cảnh ” dềnh dàng “. Thu đã về cùng cơn gió may se lạnh. Tạm rời xa cái nắng chói chang của mùa hè cùng tiếng ve rộn rã, từng đàn chim bắt đầu hãi hả cuộc hành trình thuờng niªn của mình về phuơng nam tránh rét ” bắt đầu vội vã “. Đất trời chớm thu, cái nắng vàng rục mùa hè đax nhuờng chỗ cái nắng vàng tuơi sắc thu. Thế nhung vẫn còn đó những đám mây trắng phau của mùa hạ vẫn còn vuơng vấn chua đi. Những đám mây ấy ko còn trắng phau tới nhức mắt, mà nguợc lại là màu trắng trong dịu dàng hòa vào nền trời màu thiên thanh.

Hè đi mà chưa hẳn đã đi, thu về mà có lẽ còn chua về hẳn. hè còn đó với những ánh nắng, cơn mưa:

vẫn còn bao nhiêu nắng

đã vơi dần cơn mua

sấm cũng bớt bất ngờ

trên hàng cây đứng tuổi

Có vẻ, ánh nắng của mùa hè vẫn còn luyến tiÕc thời gian, nắng còn phủ đầy mặt đất trên từng cành c©y ngọn cỏ nhung đã nhạt dần màu sắc. Thu sang với nhũng cơn mua bay dìu dịu nhẹ nhàng như bản chÊt của thu. Mưa rào - nhũng w cơn mưa rào mùa hạ đã giảm cả về cuờng độ lẫn mức độ. Mưa chỉ đủ để rửa sạch bầu trời, thanh lọc ko khí mà thôi.Mua giảm sấm cũng ít hẳn đi. Những hàng cây cổ thụ sau 1 mùa hè oàn mình vì sấm nay đã dc lặng im suy ngẫm. 1 HA ẩn dụ rất hay! .Cây cối cũng như con người càng về già càng dầy dặn vµ lão luyện thêm lên. Những sấm chớp, khó khăn của cuộc đời cuối cùng cũng chỉ là cơn sấm ầm ì chẳng thể phạm đến ta.


Chúc em học tập tốt nhé!
 
H

heroineladung

Phân tích Mây và Sóng

“Ánh sao đêm cho con sang soi là mẹ yêu khúc hát ru cho con trong giấc mơ là mẹ yêu. Mẹ là cánh chim cho con bay thật xa, mẹ sưởi ấm cho tâm hồn con mẹ yêu..”_ Đã không ít nhà thơ nhà văn tốn giấy bút cho tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt ấy. Và nhà thơ Ra-bin-đra-nat Ta-go_nhà thơ hiện đại lớn nhất Ấn độ đã sang tác nên bài thơ “Mây và sóng” bài thơ ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt với những vẻ đẹp mộng mơ và ý nghiã sâu sắc.


Bài thơ là lời thủ thỉ chân tình của em bévới mẹ về những cuộc đối thoại tưởng tượng giữa em với những người sống trên mây và sóng.


Hình ảnh cuộc sống trên mây và sóng trong sự tưởng tượng của một tâm hồn trẻ thơ thật sinh động, chân thực và mộng mơ. Ở trêm mây có “bình minh vàng “, “vầng trăng bạc “ em bé “chơi từ khi thức dậy tới lúc chiều tà “Ở trên sóng cũng vậy “sóng cười vang, sóng ca hát, sóng ngao du từ nơi này đến nơi nọ mà ko biết đã từng đến nơi nao” Câu thơ đã mở ra một không gian bao la bát ngát thật đẹp và mộng mơ, màu sắc chan hoà, lấp lánh, lung linh, diệu kì.Cuộc sống ở trên mây và sóng thật đa dạng phong phú, đầy thú vị.


Nhưng hình ảnh cuộc sống của chú và mẹ còn hấp dẫn, chân thực và sinh động hơn nhiều vì ngoài cảnh vật thiên nhiên mộng mơ ra chú bé còn có mẹ, có mái nhà ấm cúng của hai mẹ con. Và trong cuộc vui ấy mẹ và con còn mật thiết hơn giữa mây và trăng, khi sóng cười vỡ tan vào lòng mẹ thì không ai biết mẹ con ta ở chốn nào, không ai có thể chí cắt tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt ấy.


. Tác giả Ta – go đã khéo léo tạo ra một tình huông thật gay cấn, ở đó với tính tò mò của mình chú bé đã bị lờ rủ rê cuốn hút, chú bé bị đặt giữa hai cực níu kéo, chú bé rất yêu mẹ nhưng lại rất muốn sống trên mây và sóng. Cuối cùng chú bé cũng đã tìm ra được cách giải quyết ổn thoả vùa có mây, vừa có sóng, có trăng, có cả mái nhà và nhất là sự dịu dàng bao dung của mẹ. Vậy đấy cuộc sống trên mây và sóng đẹp là thế mộng mơ, cuốn hút là thế vẫn không lôi kéo được chú bé hồn nhiên, vô tư, và rất ham chơi nữa.


Trong cuộc đời của mỗi con người luôn có những cám dỗ, muốn từ khước những cám dỗ đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải có một chỗ dựa thật vững chắc, Tình mẫu tử thiêng liêng chính là một trong những chỗ dựa vững chắc nhất. “ Chỉ mẹ là niềm vui ánh sang diệu kì, chỉ mẹ giúp đời con vững bước” , , “dắt con đị qua bao nỗi đau là mẹ yêu” _ mẹ luôn ở bên con giúp con vượt qua những giây phút khó khăn nhất trong cuộc sống, khi con vấp ngã,khi con buồn và cản những khi con dối trí, mẹ luôn nắm lấy tay con và nói với con rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp … Hạnh phúc không phải ở trên mây cao vời trên sóng xa vợi mà ở ngay đây, trong cuộc sống gia đình của mỗi chúng ta, do chính chúng ta tạo dựng lên. Tất cả những gì tốt đẹp đều được bắt nguồin từ những diều rất bé nhỏ. khi ban biêt yêu và trân trọng tất cả những gì bạn có thì bạn sẽ có tất cả.


Qua hình thức đối thoại lồng trong lời kể của chú bé, qua những hình ảnh thiên nhiên giàu ý nghĩa tượng trưng bài thơ “ Mây và sóng “ của Ra-bin-đra-nat Ta-go đã ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt với nhiều vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc.




Chúc em học tập tốt nhé!
 
H

heroineladung

Phân tích bài thơ "Nói với con" của Y Phương

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng ,thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày , Y Phương (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi ."Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú và đa dạng ,nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo ,âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức .Với Y Phương ,thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới ,một phong cách mới "( Từ điển tác giả ,tác phẩm văn học Việt Nam ).

Đi từ đề tài quen thuộc :tình cảm cha con ,phụ tử thiêng liêng ,nhưng với Y Phương ,trong làng thơ Việt Nam đã có thêm một lối đi ,1 giai điệu mới . Khác với "Chiếc lược ngà ",tình cha con được đặt trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh ,tình cha con trong bài thơ được thể hiện qua lời tâm tình của người cha .Người cha đã bộc lộ lòng yêu thương con qua ước mong con sống xứng đáng ,phát huy truyền thống của,gia đình , quê hương.

Mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương với con ,nhà thơ đã gợi về nguồn sinh dưỡng trong mỗi người chúng ta .Mở đầu bài thơ là khung cảnh gia đình ấm cúng ,đầy ắp tiếng nói cười .Mười một câu thơ như tràn đầy những đầm ấm ,yên vui của tình cảm gia đình ,tình cảm quê hương :
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ caì nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."

Một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương .Cha mẹ đã dìu dắt ,nâng đỡ con từ những bướcđi đầu tiên ,đã tìm thấy niềm vui từ con .Hơn thế nữa ,con còn được sinh ra ,lớn lên trong tình yêu thương ,vẻ đẹp của "đồng mình ". "Người đồng mình" yêu lắm con ơi !" Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của "người đồng mình"tươi vui, mà rất ngọt ngào . Dáng vẻ tuy thô sơ , công việc tuy nặng nhọc (đan lờ , ken vách ) nhưng tâm hồn "người đồng mình "lãng mạn biết bao nhiêu :Họ làm một cách nghệ thuật những công việc của mình (cài nan hoa ,câu hát ) .Con thật hạnh phúc vì con được sống giữa những con người như vậy -- những con người khéo tay ,yêu thiên nhiên ,yêu lao động, lạc quan và nhân hậu .Thiên nhiên đồng mình cũng rất đẹp : Rừng núi quê hương thơ mộng đã dành cho con những gì tinh tuý nhất (hoa ) ,đã nuôi dưỡng con về cả tâm hồn ,lối sống ,"tấm lòng ". Và từng ngày ,con đã lớn lên ...có cha mẹ nâng đón và mong chờ ,có thiên nhiên thơ mộng, có cuộc sống lao động gắn bó .Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vậy đó . Nói với con những điều đó ,cha mong cho con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc sống hơn .

Dặn dò con về quê hương ,về "đồng mình ", cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi mình đã sống ,đã trưởng thành . Cuộc sống của "người đồng mình " vất vả ,gian nan "thương lắm con ơi ": "Sống trên đá ..đá gập ghềnh / Sống trong thung ..thung nghèo đói ../Lên thác xuống ghềnh ..cực nhọc .." Nhưng tự hào lắm con ơi ,người đồng mình đã,đang và sẽ luôn sống đẹp .Họ có sức sống mạnh mẽ :vất vả nhưng khoáng đạt ,gắn bó với quê hương .Họ " ko chê ,ko lo "gian khổ, mà vẫn sống tràn đầy "như sông như suối " .Họ mộc mạc,chân chất nhưng giàu ý chí ,niềm tin ,mong xây dựng quê hương tốt đẹp hơn :
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục ".

Sự đối lập giữa bên ngoài :"thô sơ da thịt" nhưng bên trong ko hề nhỏ bé về tâm hồn ,người đồng mình có ý chí tự làm chủ cuộc sống của mình. Qua "sự liên tưởng phong phú sáng tạo "tự đục đá kê cao quê hương ",người đồng mình là những con người lao động cần cù ,có nghị lực ,niềm tin ,mà tầm vóc ,nỗi buồn ,chí hướng của họ là cái cao ,xa chiều kích của trái đất (Cao đo nỗi buồn /Xa nuôi chí lớn ) .Họ giữ gìn bản sắc dân tộc mà vẫn làm rạng rỡ quê hương như vậy bởi họ yêu quê hương sâu nặng và luôn lấy quê hương làm chỗ dựa tinh thần .Người cha muốn con yêu là yêu những điều đó , yêu những đức tính cao đẹp của người đồng mình .

Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào ,sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha về quê hương .Nó như trở thành một hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương .Và ,lời nhắc nhở của người cha với con chính là một nốt nhấn kết lại bản hành khúc của quê hương :
"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Ko bao giờ được nhỏ bé
Nghe con ".

Cho con thấy tình yêu thương ,niềm tin tưởng của cha ,người cha mong con biết sống sao cho tốt ,cho xứng đáng với tình cảm của cha .Cho con hiểu cuộc sống của người đồng mình ,người cha muốn con cảm thương với những khó khăn ,vất vả để khao khát đi xây dựng quê hương .Ca ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình ,cha đã truyền cho con vẻ đẹp sức mạnh của truyền thống quê hương ,mong con sống có tình nghĩa ,biết chấp nhận gian khó ,vươn lên bằng ý chí của mình ,vững vàng trên đường đời.

Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời .Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con .Cha đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp , cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con bay đi khắp mọi nơi .

Bài thơ ko dài với 28 câu thơ tự do ,có câu 2 chữ ,có câu 10 chữ ,tất cả bay theo cảm xúc tự nhiên ,dạt dào của ý thơ .Giọng thơ tha thiết ,trìu mến . Ngọt ngào làm sao từng tiếng nhắc nhở ,dặn dò " yêu lắm con ơi ", "thương lắm con ơi " ,"Con ơi ..nghe con !" .Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc,cô đọng mà vừa phong phú ,sinh động,giàu chất thơ."Rừng cho hoa / Con đương cho những tấm lòng ...".Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ .Tiếng thơ trong "Nói với con " là tiếng lòng của Y Phương ,tiếng lòng về tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương ,dân tộc .
Tiếng cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy !
* Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp giọng nói tiếng cười:
Chân phải....
....tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đay có nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:




~~> CÒn tiẾp.
 
H

heroineladung

~~> Tiếp bài "Nói với con"


Người đồng mình yêu lắm con ơi
...........tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang túnh địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yuê, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ ...
....trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến wá.
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
--------------------------------------------------------------------------
 
H

heroineladung

Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang

Rô-bin-xơn Cru-sô là cuốn tiểu thuyết từng làm say mê bao thế hệ trẻ em Việt Nam. Dựa trên một câu chuyện có thật, Đ. Đi-phô đã sáng tạo hình tượng chàng thủy thủ Rô-bin-xơn lạc giữa đảo hoang hơn hai mươi tám năm đã cho thấy con người có thể vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chiến thắng thiên nhiên và tự chiến thắng nỗi cô đơn của chính mình để trở về với đồng loại. Cuộc sống ấy hiện lên qua lời kể của chính nhân vật, khiến chúng ta thích thú và bị cuốn hút theo giọng kể hài hước, ngôn ngữ đặc tả chi tiết sống động hóm hỉnh, toát lên vẻ đẹp tinh thần lạc quan của con người. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang sẽ cho thấy rõ vẻ đẹp ấy.
Nhân vật tự hình dung diện mạo chính mình để thuật lại cho người đọc bằng giọng điệu hài hước cố hữu nổi tiếng của người Anh. Tính chất của lời tự thuật khiến cho trình tự miêu tả cũng hết sức độc đáo, khác với lối tả chân dung thông thường. Đằng sau giọng kể ấy là cả một quãng thời gian đằng đẵng tách biệt với đồng loại, chàng phải một mình đối mặt với bao hiểm nguy rình rập, với thời tiết mưa nắng thất thường của vùng xích đạo.
Cần phải nói ngay rằng, dù phải một mình sống giữa đảo hoang, Rô-bin-xơn không khi nào nguôi những tình cảm hướng về nước Anh, vùng Y-óoc-sai quê hương của chàng. Bởi thế, lời kể của một người đã gần ba mươi năm sống tách biệt đồng loại vẫn in đậm dấu ấn suy tưởng hướng về xứ sở. Nếu không có tình cảm mãnh liệt ấy, có lẽ chàng đã chết trong mòn mỏi và tuyệt vọng rồi ! Sống để trở về, đó là cơ sở hành động để chàng phải chuẩn bị chu đáo, chống chọi với mọi mối đe doạ từ nhiều phía, tổ chức cuộc sống cho mình. Bản thân câu chuyện được kể lại đã có thể xem như khúc khải hoàn sau gần ba mươi năm của một con người dũng cảm đã tự tạo được niềm tin ở chính mình.
Trước hết, hãy nghe chàng tả về trang phục: “Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên được nụ cười mỉm từ phía bạn đọc và có lẽ chính người tạo ra nó cũng phải thú vị trước hiệu quả, công dụng của chiếc mũ này. Không chỉ có chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da dê – trang phục ấy không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh. Rô-bin-xơn tự ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô kệch trong bộ dạng từ đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã hào phóng cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác ra những sản phẩm độc nhất vô nhị này. Cuộc sống gần ba mươi năm buồn tẻ không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…. Có lẽ đến tận bây giờ, các nhà thiết kế thời trang giàu óc tưởng tượng nhất cũng không thể chế tác được một bộ đồng phục … dê độc đáo đến thế ! Nhưng với Rô-bin-xơn, giá trị sử dụng của món thời trang này mới là mục đích của chàng, bởi nhờ thế, chàng tồn tại với tư cách một con người đàng hoàng, không phải một con người bị lôi kéo trở về với bản năng nguyên thủy ăn lông ở lỗ.
Vị lãnh chúa và cũng là thần dân duy nhất của đảo hoang này trong suốt mười lăm năm còn trang bị cho mình những vật dụng cần thiết để bảo đảm cuộc sống nơi hoang dã. Vẫn bằng giọng điệu hóm hỉnh, Rô-bin-xơn thuật lại cho chúng ta hình ảnh một anh chàng nai nịt chỉnh tề như một chiến binh nhưng “không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Thêm vào đó là hai cái túi cũng bằng da dê, “một túi đựng thuốc súng, túi kia đựng đạn ghém”. Với những vật dụng lỉnh kỉnh như vậy, ta hình dung ra một con người suốt ngày bận rộn với công việc chặt cây, cưa gỗ dựng lều, rào giậu, dựng lên “cơ ngơi” cho riêng mình. Qua hình ảnh Rô-bin-xơn “đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê”, ta như nhìn thấy bóng dáng con người thời tiền sử sống bằng nghề hái lượm, săn bắt. Nhưng điểm khác biệt duy nhất là khẩu súng - vật bất li thân của chàng. Vũ khí của xã hội văn minh phần nào cũng giúp chàng tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm để đối chọi với thiên nhiên, chủ động đối phó với mọi bất trắc một cách tự tin hơn. Rô-bin-xơn không hề ỷ lại vào đó để sống sót mà điều quan trọng là sống một cách vững vàng trong điều kiện thiếu thốn.
Đàng sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có thể hình dung ra quyết tâm và ý chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo toan, tính toán từ “sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn mạnh mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da dê kì quái che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”. Một trận cảm lạnh bất ngờ có thể làm chàng gục ngã, ý thức được điều đó nên chàng phòng ngừa tối đa cho sức khoẻ chính mình. Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cũng là cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường dễ xảy đến với con người cô đơn. Nếu như chỉ ngồi khắc từng vạch lên thân cây đếm thời gian, hẳn chàng đã không đủ sức mạnh để tồn tại suốt một thời gian dài đằng đẵng như vậy. Ý chí của Rô-bin-xơn mới mạnh mẽ làm sao! Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế người làm chủ, bắt thiên nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến thắng chính mình. Đây mới quả thực là chiến thắng vinh quang đáng tự hào nhất, vì là thử thách khó vượt nhất !
Khép lại bức chân dung tự hoạ bản thân, Rô-bin-xơn mới tự hoạ diện mạo của mình bằng mấy dòng ngắn ngủi nhưng khiến ta phải nở nụ cười sảng khoái. Không hề có một tấm gương soi, nên việc chăm chút dung nhan chỉ giới hạn ở trong tầm mắt của Rô-bin-xơn : bộ ria mép kiểu cách được chăm sóc cẩn thận. Hoá ra trong hoàn cảnh ấy, một chàng thợ may tồi vẫn có thể thành một anh thợ cạo cầu kì tạo dáng cho bộ ria : “tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”. Nhu cầu làm đẹp ấy hiệu quả ra sao ? Hãy nghe Rô-bin-xơn tự thưởng thức : “tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ của tôi ; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Bộ ria ấy chẳng biết có gợi lên vẻ oai vệ trịnh trọng như một Xun-tan (lãnh chúa) người Thổ hay không, nhưng gợi cho ta tiếng cười đầy chất u-mua (humour) của người Anh chính hiệu. Tính hài hước là liều thuốc vô giá, xua đi những muộn phiền. Tiếng cười ấy không tách rời niềm hi vọng khao khát trở về với nước Anh thân yêu của Rô-bin-xơn, thấm đượm tinh thần lạc quan của con người đầy bản lĩnh.
Khép lại trang sách, chân dung Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang vẫn sống động từng chi tiết, với nụ cười thường trực có sức hấp dẫn lạ kì. Rô-bin-xơn là hiện thân của con người lí tưởng không biết lùi bước trước bất kì thử thách khắc nghiệt nào. Bản lĩnh phi thường và tình yêu sự sống của chàng là bài học cho bất cứ ai muốn hoàn thiện giá trị tốt đẹp của con người.
Ta chợt hiểu, vì sao Rô-bin-xơn Cru-sô của Đ. Đê-phô lại cuốn hút sự say mê của biết bao nhiêu thế hệ trên khắp hành tinh này !

Chúc em học tập tốt nhé!
 
Top Bottom