Huy Cận là 1 khuôn mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông trước cách mạng tháng 8, nhân vật trữ tình thường cô đơn nhỏ bé, lạc long, bơ vơ trong vũ trụ bao la, huyền bí khôn cùng. Chính cách mạng tháng 8 kì diệu và cuộc sống mới sau cách mạng đã đem tới cho nhà thơ một cái nhìn ấm áp tươi trẻ, tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống, vào con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của ông là 1 minh chứng về điều đó. Bài thơ ra đời năm 1958, trong nguồn mạch cảm xúc biết bao yêu thương về 1 cuộc sống “ mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là 1 bức tranh đẹp đẽ, vừa là 1 khúc ca hào hung về những người đánh cá trên biển cả bao la của tổ quốc. Mỗi người dân làng chài thật phấn khởi, say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới
Ngay mở đầu bài thơ, ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khỏe khoắn cho đoàn thuyền ra khơi. Tiếp theo niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vẫn vang lên khỏe khoắn, ngợi ca cảnh đánh cá trên biển, dưới trời trăng sao. Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt đẹp:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lới vây giăng.”
Tác giả đã sáng tạo khi sử dụng hình ảnh nói quá: đoàn thuyền đánh cá như đi trong sự vây bọc, nâng đỡ của thiên nhiên. Gió – người bạn thân thiết của con người – lái con thuyền ra khơi. Gió thổi phồng căng cánh buồm như vầng trăng khuyết, rồi mây cũng như cao hơn, thoáng đãng hơn,… Tất cả được nhìn từ cặp mắt của những người dân lao động đã dành được quyền làm chủ biển trời quê hương. Cảnh kì vĩ, lớn lao, phóng khoáng bởi con người sảng khoái, tự do. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, lớn lao bao nhiêu thì càng tôn vẻ đẹp con người lên bấy nhiêu. Tầm vóc của họ vụt cao lên, sánh ngang với biển trời vũ trụ, Động từ “ lướt” cho thấy đoàn thuyền chạy rất nhanh trên mặt biển, càng chứng tỏ khí thế phơi phới của người dân làng chài
Không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” cho ta thấy Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long.”
Đây là cảnh thực hay tưởng tượng? Ở đây, quả thật có sự pha trộn giữa thực tế và ảo mộng, làm cho biển đêm có 1 vẻ đẹp thật lãng mạn, huyền ảo. Những con cá song lấp lánh như những ngọn đuốc hồng giữa biển đêm thăm thẳm. Cái đuôi cá song quẫy chẳng khác gì mảnh trăng vàng lóe sáng trên mặt biển. Hình ảnh thật nên thơ với cách gọi cá là em, hiển hiện tình yêu thiên nhiên thật mãnh liệt
Nhà thơ mở rộng hồn mình để đón nhận bao vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên, để cảm nhận nhịp thở của thiên nhiên qua những đợt song dâng lên hạ xuống đầy ánh sao. Biển và trời như đã hòa vào làm một và hình ảnh con người hiện lên đẹp đẽ biết bao giữa cái vũ trụ lung linh đấy. Một lần nữa, tiếng hát của họ lại cất lên giữa bao la biển trời:
“ Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Tiếng hát hiển hiện niềm vui trong lao động của người dân chài. Đồng thời còn biểu hiện những mong muốn đánh bắt được nhiều cá của họ. Cảm xúc cùa họ thật bay bổng, phóng khoáng, chen chúc tình yêu đời. Họ lao động khẩn trương, luôn tay gõ nhịp dồn cá vào lưới. Với sự liên tưởng kì thú, một lần nữa, nhà thơ đã viết: “ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” . Phải chăng ánh trăng tỏa lấp lánh trên mặt biển, sóng dâng đầy ánh trăng, vỗ vào mạn thuyền từng nhịp đã khiến nhà thơ miêu tả công việc của người đánh cá thú vị và đẹp như vậy. Đây thực sự là 1 bài ca lao động, vừa hào hung, vừa giàu chất thơ. Nhưng có lẽ, bài ca say đắm nhất là bài ca về sự giao hòa, siết bao thân thiết giữa con người và biển cả. “ Biển cho ta cá như lòng mẹ” Đây là 1 hình ảnh so sánh đẹp: lòng mẹ, nguồn tình cảm yêu thương đã nuôi dưỡng mỗi con người. Biển không chỉ đẹp, giàu có mà còn rất ân tình. Biển không chỉ nuôi dưỡng con người hôm nay và mai sau mà biển đã “ nuôi lớn đời ta từ buổi nào”
Đêm sắp tàn và 1 ngày mới đang đến:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi hồng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. “
Khổ thơ gợi hình dung về hình ảnh những người lao động làng chài thật khỏe khoắn. Chỉ 1 từ “ xoăn” mà gợi tả được những bắp tay săn chắc, vừa nói được cái hồ hởi, hăm hở của những người lao động mong muốn thấy được hiệu quả lao động của mình. Và lưới rất nhiều cá:” … chùm cá nặng” đúng với mong mỏi của dân chài. Câu thơ thứ 3 miêu tả thật đẹp hình ảnh con cá đang được kéo từ biển lên. Vẩy đuôi của chúng lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Những từ “bạc, vàng”, một mặt diễn tả sự giàu có của biển cả, đồng thời cũng cho thấy thái độ tôn trọng của những người đánh cá với những thành quả lao động của mình. Và dường như, đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng, ưu ái của biển cả đối với con người. Công việc kết thúc tốt đẹp, họ trở về trong trạng thái sảng khoái, phấn chấn.