[Văn 9] Cảm nhận của em về bài thơ đồng chí!

A

annhinhanh_1997

“ Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và đã chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Ôi!Từng dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm như làm sống dậy hào khí của hai cuộc kháng chiến hào hùng chống Pháp, Mĩ. Và từ trong hình ảnh bom đạn đầy khốc liệt ấy, bao người chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng, kiên cường và bất khuất. Có rất nhiều nhà thơ đã sáng tác về hình ảnh người chiến sĩ cao quý ấy như lời tri ân và nhắc nhở lớp trẻ phải nhớ đến công ơn mà các anh đã hi sinh vì hai tiếng “Tự do”. Một trong số ấy, “Đồng chí” của Chính Hữu chính là bài thơ đặc tả sống động về tình đồng đội thời chiến, về những người nông dân cầm súng được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu.
Chính Hữu được biết đến là nhà thơ cách mạng với rất ít tác phẩm nhưng đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm xúc. Qua “Đồng chí”, ta sẽ hiểu hơn.
“ Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Mở đầu bài thơ, hình ảnh về hai miền quê như hiện lên trước mắt chúng ta. “Anh” xuất thân từ vùng ngập mặn, khó cày cấy vì phèn chua. “Tôi” ra đi từ miền sỏi đá khô cằn khó mà có thể trồng trọt. Có lẽ, sự khó khăn về hoàn cảnh đã hình thành nên tình cảm đồng đội của hai người chăng?Đúng vậy, cùng chung cảnh ngộ với nhau, dường như hai nhân vật đã hình thành nên sợi dây tình cảm vô hình đang dần gắn kết hai người lại với nhau vì họ đều là những người nông dân cầm súng bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Hai trái tim giản dị, chân chất cùng chung nhịp đập từ đây.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hai nhân vật “anh” và “tôi” từ phương trời nao nhưng lại cùng chung lí tưởng, mục đích với nhau nên đã tạo ra mối nhân duyên thật đáng trân trọng. Hình ảnh “súng bên súng, đầu sát bên đầu” sao lại thân thuộc và họ rất gần gũi bên nhau. Cây súng – người bạn chiến đấu của họ đang cạnh nhau, đầu họ sát kề nhau như chút gì đó san sẻ cho nhau, như chút gì đó trao nhau niềm tin. Bức tranh ấy thật sống độc làm sao khi tư thế sẵn sàng chiến đấu trong việc thi hành nhiệm vụ vẫn chất chứa của cái tình mang tên :Đồng chí!
“Đồng chí!” – tên gọi khá quen thuộc với các cơ quan ban ngành hiện nay như Đoàn, Đảng nhưng mấy ai biết rằng hai tiếng thiêng liêng ấy xuất phát từ bài thơ này. Cùng chung lí tưởng cao đẹp, họ đã tìm đến ánh sáng của cách mạng soi gọi và cùng chiến đấu bên nhau. Tiếng”Đồng chí” ấy như một câu cảm thán của tác giả xúc động thốt lên từ sâu trong tim ông. Đó là sự khẳng định mối về sự đồng cảm tương quan hình thành nên sự bền chặt của hai người chiến sĩ.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay”
Hai câu thơ trên như biểu rõ tâm trạng của người lính khi ra trận. Họ bỏ lại sau lưng tất cả, có lẽ là hạnh phúc riêng để đặt vận mệnh cả dân tộc lên vai. Điều đó thật thiêng liêng, cao cả hơn bất kì thứ gì phải không?Nơi quê hương anh vẫn còn đó, cái nghề nông gắn theo “anh” từ nhỏ nhưng “anh” đã gửi lại hậu phương. Tiền tuyến nơi đây biết rằng khó khăn ở chốn ấy có người thân, bè bạn và đôi khi là tình yêu của anh đang ngóng chờ. Gian nhà trống vì vắng tiếng anh chợt lung lay vì những cơn gió trái trời. Liệu rằng trái tim người lính còn bền bỉ hay chăng? Vâng, “anh” thật sự “mặc kệ”. Hai từ “mặt kệ” như thái độ bỏ qua tất cả sau lưng, vượt lên lợi ích riêng của cá nhân nhằm giữ vững lí tưởng chung là giành độc lập. Như Tố Hữu có viết:
“ Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa!”
Đấy!Tố Hữu cũng cùng chung mục đích như nhân vật “anh” kia, sẵn sàng làm người lính đi đầu. Họ đã chấp nhận cầm cây súng trên tay, đặt hàng triệu trái tim lên mình thì ắt hẳn họ đã quên đi những vui buồn cá nhân để mang độc lập về cho dân tộc. Dường như tất cả các chiến sĩ đều đã quên đi bản thân, chỉ nghĩ đến thời cuộc bấy giờ mà mang trong mình một ý chí sắt đá kiên cường nhất.
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Biết rằng đã tham gia chiến đấu vì Tổ quốc, vì quê hương thì đâu ai còn giữ riêng cho mình một nỗi niềm. Hình tượng “giếng nước, gốc đa” được tác giả nhân hóa một cách sinh động nhưng đó lại là hình ảnh thật lắng động. Giếng nước có mẹ hay chị người chiến sĩ hay đến múc nước dùng cho sinh hoạt trong gia đình, gốc đa nơi có người cha đang dẫn trâu về, cây đa đầu làng như đang chờ hình bóng của ai đó hay người lính chăng? Và biết đâu, trái tim một cô gái đang ngóng chờ anh chiến sĩ nơi gốc đa ấy thì sao? Quê hương vẫn đang là hậu phương cho “anh” có thể vững tin mà thi hành nhiệm vụ của mình. Sự sẻ chia của hai nhân vật “anh và tôi” thật lắng sâu
Tình đồng chí đồng đội không đừng lại ở đó, đó còn là sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Từng cơn sốt đi qua sẽ là cơ hội cho tình cảm của họ được gắn bó hơn cả. “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh./ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.” Họ đã trải qua cùng nhau từng cơn khốn khó của căn bệnh sốt rét kia mà khi ấy vẫn chưa có thuốc trị dường như sự chân thành từ trái tim đã kết nối hai tâm hồn với nhau. Có lẽ lúc nguy nan sẽ là lúc mỗi con người sẽ biết được giá trị của tình cảm là gì. Vừng trán ướt dẫm mồ hôi vì cơn sốt nhưng vẫn còn cái tình đồng chí nơi đây. Thật đáng trân trọng biết bao bạn nhỉ?
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Trong rừng lạnh biết mấy thế mà áo “anh” lại rách vai, quần “tôi” có vài mảnh vá. Có lẽ đây là chút gì của sự đồng cảm với nhau giữa hai người lính. Áo “anh” rách thì đã sao khi quần”tôi” cũng chắp vá. Sự thiếu thốn về vật chất nhưng chẳng ngăn tinh thần của các anh. “Miệng cười buốt giá”, nghe có vẻ như nụ cười kia vẫn chịu ảnh hưởng từ cơn giá rét bên ngoài và còn” Chân không giày”. Sự ấm áp nay còn đâu khi trời đang trở gió, quần áo chẳng lành với đôi chân trần. Chắc các anh khổ cực lắm, lạnh buốt lắm nhưng thực chất chỉ là bề ngoài mà thôi. Trái tim người lính vẫn đang rừng rực với tinh thần chiến đấu. Vì vậy, sự đồng cảm đã được cụ thể hóa bằng hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm từ đôi tay đây, các anh đã trao nhau ngọn lửa rực cháy của tình yêu đất nước, trao nhau niềm thương cảm cùng nhau.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
Cái cảnh giá rét của sương muối như ngấm sâu vào da thịt của người lính. Miền Bắc lúc bấy giờ, nơi rừng hoang ẩm ướt và cái lạnh thấu xương như cắt thịt vẫn chẳng làm nao lòng những người lính kiên cường ấy. Ai nếm trải qua gian lao, thử thách mới thấu hiểu hết những khó khăn mà ngày trước các anh bộ đội đã từng vượt qua. Bức tranh tả thực về hai người lính chung lí tưởng dưới màn sương rét buốt đã bộc hết tấm lòng mà họ dành cho đất nước, quê hương. Chính vì vậy, câu thơ “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.” rõ ràng là một câu thể hiện sự chủ động, sẵn sàng. Dù có khó khăn cách mấy thì “anh” và “tôi” đều sát cánh bên nhau để làm tròn nhiệm vụ được giao. Đó còn là khí phái hiên ngang, chủ động trước bọn giặc kia. Hình ảnh hai người lính gác như được tô rõ nét qua câu thơ này. Có lẽ, cạnh bên nhau với sự đồng cảm, sẻ chia thì dù bao trở ngại về vật chất, thời tiết bên ngoài cũng chẳng làm nao núng làm ta nhớ đến câu thơ:”Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước./Mà lòng phơi phới dậy tương lai.”cũng tràn đầy nhiệt huyết như người lính trong bài thơ này.
Và kết thúc bức tranh tả thực sinh động ấy, tác giả đã dùng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” – một hình ảnh khiến người đọc phải suy ngẫm. Dường như ba sự vật đầu-súng-trăng đã gắn kết lại cùng nhau. Ánh trăng vằng vặc kia như đang soi sáng cho người lính cách mạng. Cây súng và hai đầu tựa vào nhau tạo nên sự gắn kết chặt chẽ không chỉ về hình thức mà cả hai tâm hồn đã đồng điệu cùng nhau. Trăng kia cũng sáng soi cho tình đồng chí của họ. Ôi!Bức tranh thật sống động về hình ảnh và cả về cái tình mà họ - những người nông dân cầm súng đã dành cho nhau.
Qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, ta đã thấy được cơ sở hình thành nên những tình cảm cao đẹp giữa đồng đội có chung hoàn cảnh và lí tưởng như nhau. Từ đó, ta rút ra cho bản thân rất nhiều bài học về sự gắn kết giữa người với người, đặc biệt là người cùng chung ta lí tưởng sống. Ta cũng phần nào biết được nỗi gian lao mà các anh lính đã phải trả qua từ vật chất đến điều kiện thời tiết. Nhờ bài thơ này, ta sẽ cố gắng học tập vươn lên để không công ơn mà những người chiến sĩ cách mạng đã giành được cho ta như ngày hôm nay. Giá trị của bài thơ sẽ mãi trường tồn và hai tiếng :”Đồng chí!” sẽ mãi là tiếng gọi thân thương nhất cho đến mai sau
 
N

nhoaucruco

um!........thế thì mit' thử post mí bài lên cho mọi người xem xem dk hem ná....cho mít lời nhận xét:D :

Chính Hữu là một nhà thơ lớn của dân tộc ta. Chính Hữu từ người lính trung đoàn thủ đo trở thành nhà thơ quân đội , ông hoạt động trong quân đội , ông hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ . Thơ của ông viết ít nhưng viết đề, hầu như chỉ tập trung vào tác phảm dầu súng trăng treo được xuất bản năm 1966.
Bài thơ " đồng chí "được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đẩutong chiến dịch Viẹt Bắc ( thu đông năm 1947 ). Bài thơ thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơnqua những chi tiết , hình ảnh, ngôn ngữ giản dj, cô đọng, giàu sức biẻu cảm.
Đầu tiên cảm nhận được khi chúng ta đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên chân thực, thực như trong cuộc sống còn nhìu vất vả lo toancủa họ. Ngỡ như từ cuộc đời thật họ đã bước thẳng vào trang th. Trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ơt các làng quê còn đói nghèo lam lũ
" Quê hương anh nước mặn đồng chua
bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng iêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến :"từ đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ đồng chí là một câu đặc biệt , khẳng định tình đồng chí, là bản lề gắn kết đoạn 1 và đoạn 2.
Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đông chí cùng nhau một nỗi nhớ : nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà , nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào kũng thắm thiết một tình quê vơi đầy :
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính".
Giếngnước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa : "Cây đa cũ, bến đò xưa....Gốc đa, iếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận đ
đưa vào thơ rát đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận? Hay "người ra lính"vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Có cả hai nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Tình yêu quê hương đã góp phần làm hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt.
Bảy câu thơ nối tiếp ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi vs gậy tầm vông, vs giáo mác ,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của Pháp xâm lược. Những ngày đầu nhân dân ta đã vô cùng khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,...Người lính ra trận áo vải chân không đi truy lùng giặc, áo quần rách tả tơi, ốm đau, bệnh tật, sốt rét rừng,"sốt run người vầng trán ướt mồ hôi:
"Anh vs tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Aó anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Chữ "biết trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ " anh vs tôi","áo anh...quần tôi" xuất hiện trongtrong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ bốn tiếng cấu trúc tương phản:"miệng cười buốt giá"thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc dồn nén bỗng ào lên :" thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội , đồng chí được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương : "tay nắm lấy bàn tay".Anh nắm lấy tay tôi. tôi nắm lấy tay anh, để động viên nhau. truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, đi tới và làm nên thắng trận.
Phần cuối bài thơ ghi lại 2 người chiến sĩ- hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng"đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là "rừng hoang sương muối", một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt. trong căng thẳng"chờ giặc tới"hai chiến sĩ vẫn"đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là đêm trăng trên chiến khu. Một thứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
" Đầu súng trăng treo"
Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông" rừng hoang sương muối" thì có " đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng. Về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên khôg như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hy sinh. ''Đầu súng trăng treo" là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn iêu đời, tình đồng chi thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến.
Bài thơ đồng chí vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao kả, thiêng liêng , thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của anh- người binh lính nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm xúc , mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao dk Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
" Đồng chí " là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ- người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bsì thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, cao cả và thiêng liêng.
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom