[Văn 9] Bức tranh tứ bình trong truyện kiều

L

leo345

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1. Phân tích 4 bức tranh sau đây
-Xuân: Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm 1 vài bông hoa.
-Hạ;Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
-Thu:Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc,non phơi bóng vàng.
-Đông:Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn,đông đà sang xuân
Giúp mình nhanh nhé T3 mình phải nộp rồi@};-@};-@};-@};-
 
T

tuananh1203

Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan trọng trong câu chuyện tình trai tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, hai bức hoạ này có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?

Trước hết là bức hoạ mùa xuân khi hai chị em Thuý Kiều du xuân. Đây là bức hoạ với những gam màu mát, đường nét mềm mại, đúng theo qui ước của hội hoạ ”màu lạnh -lam, xanh …thường tạo cảm giác mát mẻ…đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình ” [11,59]. Cảnh có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô tận, có sắc trắng của bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng mặt trời vào độ tháng ba tiết thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim én, có sự vận động khẩn trương của thời gian, có không gian của chiều cao, chiều rộng và chiều ngang, có cái diện để rõ cái điểm. Bức tranh rất phương Đông thật thông thoáng, cân đối, hài hòa tươi mát, sống động như chính sự sống động của tâm hồn, của tuổi xuân hoà hợp với cảnh xuân về:

Ngày xuân con én đưa thoi , (39)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. (40)
Cỏ non xanh rợn chân trời, (41)
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (42)

Khác với bức tranh xuân dân dã trong thơ Nguyễn Trãi “Độ đầu xuân thảo lục như yên. Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên...”(Trại đầu xuân độ), rất nông thôn trong thơ Nguyễn Bính ”Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình. Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh....”(Muà xuân xanh), rất sống động trong thơ Hàn Mặc Tử ”Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời…”(Mùa xuân chín), bức tranh xuân trong thơ Nguyễn Du đài các, quí phái hơn. Bởi lẽ ngoài sắc cỏ, bức tranh còn được điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa trắng trên cành hoa lê. Hai mảng màu xanh trắng tạo nên »sự tương phản thẩm mỹ rất táo bạo, màu trắng muốt của hoa lê nổi bật»[55, 111]. Không chỉ khác nhau về tính chất những bức vẽ còn khác nhau về đường nét. Nguyễn Bính nặng về nét tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư thực ; Nguyễn Trãi lại dùng nét động mạnh mẽ’’ thuỷ phách thiên’’. Ngay cả cái sắc màu của cỏ cũng khác nhau: xanh nhạt chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn mởn trải rộng (thơ Nguyễn Du), xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im lìm (thơ Nguyễn Bính)

Cũng là cảnh xuân nhưng cảnh xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý được vẽ bằng những nét vẽ chi tiết hơn. Đó là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu điều trong một không gian được thu nhỏ :

Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, (2745)
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời ; (2746)
Trước sau nào thấy bóng người, (2747)
Hoa đào năm ngoái còn cười gío đông, (2748)
Xập xoè én liệng lầu không, (2749)
Cỏ lan mắt đất, rêu phong dấu giày (2750).

Nơi đây không còn sự sống của con người, mọi vật đều thay đổi, chỉ duy có hình ảnh sắc màu của hoa đào là không thay đổi. Hoa đào tượng trưng cho mùa xuân, mùa xuân lại tượng trưng cho tình yêu. Tình yêu dù chỉ còn là hoài niệm nhưng nó vẫn mãi mãi rực rỡ như cánh hoa đào lúc độ xuân về. Hình ảnh‘’hoa đào’’ được Nguyễn Du mượn từ ý thơ của Thôi Hộ :‘’Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong’’(Mặt người chẳng biết đi đâu mất, Hoa đào vẫn như cũ, vẫn cười với gió đông) và đặt thật đúng chỗ ‘’Cái có đột đến giữa cái không như một cứu cánh, một điểm tựa của tâm linh. Nó như một an ủi, vỗ về làm dịu lại nỗi đau của con người cùng một lúc đã mất đi quá nhiều những gì vô giá’’[21,213]. Hình ảnh hoa đào đã trở thành dấu gạch nối trong hai mảng của một bức tranh- mảng bức tranh chỉ toàn là hình ảnh của sự vật và mảng bức tranh đã có dấu vết con người. Trong một bức tranh với nhiều loại sắc màu sắc màu- xanh, vàng, hồng, trong đó màu hồng của hoa đào đã trở thành màu nổi bật. Sắc màu hồng rực rỡ xuất hiện trong gam màu nhàn nhạt, trong khung cảnh hoang tàn còn là cái nghịch lý trớ trêu, một sự bơ vơ lạc lõng.

Ngoài việc tạo ra sự tương phản ngầm ẩn bức tranh hôm nay gợi nhớ bức tranh năm xưa, Nguyễn Du còn chủ đích bài trí những hình ảnh lộn xộn, chẳng có trình tự :‘’cỏ mọc, lau thưa, song trăng quạnh quẽ, vách rã rời, gió, mưa, én, lầu không, rêu phong’’ trong mọi không gian trước- sau, cao- thấp, trong- ngoài, trên- dưới. Tất cả nương tựa vào nhau bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa. Đó là sự xuống cấp của sự sống, sự phát triển tự do của thiên nhiên và tâm trạng đầy bi kịch của một con người.

Trong bức tranh này, Nguyễn Du đã dùng đến nhiều loại đường nét- đường nét xiêu quẹo, ngả nghiêng (vách mưa rã rời) ; đường nét thể hiện sự vươn lên một cách tự do, cao thấp không hài hoà (cỏ, lau, rêu) ; đường nét thể hiện sự vận động theo chiều ngang hoặc lên xuống (én liệng ) và cả những đường nét mờ nhạt (rêu phong dấu giày). Nó như những mảnh vụn bày ra bừa bãi không ai chăm sóc tỉa tót.
 
T

tuananh1203

Mùa thu:

Không đi chệch với qui ước của người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng buồn, gợi nhớ nhung thương cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif ‘’cúc vàng, giậu thu, sen tàn, lá ngô đồng, rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong bài nghiên cứu về thơ thu Nguyễn Du có kết luận :”Trong Truyện Kiều, mùa thu được miêu tả với nhiều sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp có tàn phai …với trời mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng, sân ngô cành biếc, lá phong nhuộm hồng ...”[25, 214].

Nguyễn Du hoạ tác nhiều những bức tranh mùa thu trong phần Thuý Kiều gặp gỡ Thúc Sinh, Sở Khanh, những mối tình mang tính tạm bợ.

Khảo sát toàn bộ tác phẩm, ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý nghĩa:

- Trong thơ Nguyễn Du, mùa thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy hoặc thời gian có sự xuất hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác định :

Nửa năm hơi tiếng vừa quen, (1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. (1386)
Giậu thu vừa nảy giò sương, (1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi, (1388)

- Thú quê thuần hức, bén mùi, (1593)

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô . (1594)
Sen tàn, cúc lại nở hoa, (1796)

- Mùa thu không chỉ buồn, mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh mông hư ảo:

Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)

- Mùa thu mùa của sự chia tay và tiễn biệt:

Người lên ngựa, kẻ chia bào, (1519)
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san. (1520)

Cái không gian thực nơi chia tay và cái không gian nội tâm như hoà trộn trong một bức tranh thu đặc biệt. Bức tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái, có một sự chuyển màu rất kì diệu thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ sẫm khi rừng phong vào thu. Trong đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người như nhạt nhoà nhỏ bé mờ ảo gần như mất hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc như đang mở rộng đến vô cùng. Không gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái khoảng cách –người lên ngựa và kẻ chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng, cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là sự chuyển biến trong tình cảm –vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình ảnh rừng phong chuyển sắc cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán:“Bán tại giang đầu phong thụ lâm”(Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông)( Tạp ngâm III) hay ”Phong thụ lâm trung diệp loạn phi”(Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây)(Tân thu ngẫu hứng) ”Thu lai thuỳ nhiễm phong lâm thuý”(Trong rừng phong lá thu bay loạn xạ)(Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là những xúc cảm vô hạn của Nguyễn Du trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu biểu cho mùa thu.

Cái màu quan san là màu gì nhỉ ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn hiu hắt và tê tái, màu của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung, tương lai mờ mịt. Nói đúng hơn đây là cái màu không có thực nhưng tồn tại trong tâm linh nàng Kiều. Levitan cũng có một bức hoạ nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó là bức tranh về màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận xét về chất hoạ trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Trần Đăng Xuyền có viết: ’’Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoạ: Không có âm thanh, chỉ có hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa, mỗi lúc một thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng xa dần của người đi kẻ ở. Ba câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu, màu hồng của các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn dâu’’[46,19]

- Không gian vắng lặng thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng buồn đến nao lòng khi một mình một bóng ngồi chép kinh:

Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu. (1934)
- Khung cảnh Kiều và Sở Khanh đi trốn càng rùng rợn và vắng lặng hơn. Sắc màu nhợt nhạt khói sương làm Kiều lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoạ đang rình rập:

Đêm thu khắc lậu canh tàn, (1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120)
Lối mòn cỏ nhợt màu sương, (1121)
Lòng quê đi một bước đường một đau. (1122)

Trong toàn bộ bức tranh thu sắc vàng là sắc màu chủ đạo – vàng ngô, vàng cúc, vàng sen, vàng rừng, vàng trăng, vàng đỏ của rừng phong. Những bức tranh có ngày có đêm, có sớm có khuya, có không gian mênh mông cách trở, có gió mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng trong. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở ”màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây khói biếc”.

Trong những bức tranh thu đó có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với những bức tranh sơn thuỷ Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội hoạ có thể xếp bức tranh này vào nhóm tranh thuộc trường phái ấn tượng:

Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng . (1604)

Bức tranh được thêu dệt bằng trí tưởng tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa hư. Khung trời rộng lớn lại ở trong khung nước, xanh trời hoà cùng sắc xanh của nước, xanh núi được rải sắc vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không cao thấp là những hình khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh của khói. Có thể nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoà trộn vào nhau tạo nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong văn học cổ điển. Ngôn từ đã hoá thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành bức tranh, thi phẩm đã thăng hoa thành hoạ phẩm.

”Thơ thu Nguyễn Du không đạt đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng không yên ả thanh bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính...mà đặc quánh những tủi buồn, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường....”[25, 218].

Nhìn chung, mùa xuân và mùa thu là hai mùa được thi hào hoạ tác nhiều nhất, bởi lẽ nó là mùa tình yêu- mùa tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng Kiều-cuộc tình thơ và cuộc tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ ải.

Mùa hè:

Cũng như mùa xuân và mùa thu, mùa hè cũng có những bức tranh đẹp gợi cảm:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè, (1307)
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. (1308)

Khác với các nhà thơ khác miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ trời, gió nồm lồng lộng, bức hoạ mùa hè trong thơ Nguyễn Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắc gọi mùa. Cái rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng gam màu đậm đặc rực rỡ của hoa lựu như đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Sự sống và sắc màu như trổi dậy mạnh mẽ đơm hoa kết trái. Thiên nhiên như khêu gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người ”toà thiên nhiên”


-Mùa hè còn được ghi nhận trong sự vận chuyển màu sắc, sự vận hành của thời tiết chuyển mùa-xuân sang hè, hè sang thu :

Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh. (1474)
Sen tàn, cúc lại nở hoa, (1795)

Mùa đông :

Có lẽ đây là mùa thi hào đề cập ít nhất, chỉ một lần duy nhất nhưng nó cũng trở thành“nhân vật” nhằm diễn tả nỗi sầu muộn khắc khoải chờ mong của chàng Thúc đang đếm từng thời gian trôi chày mong ngày gặp lại cố nhân:

Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân. (1796)
Tìm đâu cho thấy cố nhân? (1797)

Dưới ngòi bút của thi hào thời gian co giãn rất linh hoạt. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các mùa trong thơ Nguyễn Du, Xuân Diệu có viết:”Bốn mùa chuyển rất thần tình …Với một câu thơ , Nguyễn Du cho diễn ra cả một mùa; với hai câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một năm” [92,136] và có khi là cả ba năm”Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.

Dù xuân hay hạ, thu hay đông, tất cả đều có những tín hiệu đặc trưng, những gam màu phù hợp: gam màu lạnh chủ yếu là màu xanh thường được dùng cho mùa xuân, gam màu nóng chủ yếu là vàng-đỏ thường được dùng cho mùa thu và hè.

Thiên nhiên dưới ngoài bút thi hào như đẹp hai lần. Ngoài những hình ảnh mang tính ước lệ còn có những sáng tạo, phá rào bất ngờ. Những phá rào ấy thường để lại những kiệt tác có một không hai .
Nguồn: vanchuongviet.org
 
Last edited by a moderator:
T

thuyhoa17

1. Phân tích 4 bức tranh sau đây
-Xuân: Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm 1 vài bông hoa.
-Hạ;Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
-Thu:Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc,non phơi bóng vàng.
-Đông:Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn,đông đà sang xuân
Giúp mình nhanh nhé T3 mình phải nộp rồi@};-@};-@};-@};-


Bức tranh mùa xuân:

- Hình ảnh: cỏ non, chân trời: một cái nhỏ bé và một cái rất to lớn, nhưng được ND gắn kết với nhau, làm cho mọi khảong cách như gần lại với cách dùng từ rất hay "xanh tận" >> trước mắt chúng ta là một bức tranh xuân với cỏ non phủ tràn đến ngút ngàn tầm mắt, chỉ thấy xanh và xanh. Cái sự tươi non của đất trời được Nguyễn Du thâu tóm trong chỉ vài từ càng cho thấy tài năng thi nhân đất Việt.

Không chỉ dừng lại ở đó, không đơn điệu chỉ là xanh thôi, mà nó còn gây ấn tượng bởi 1 hình ảnh đặc biệt khác "cành lê trắng". Trên nền xanh trải dài tưởng chừng chỉ có thế, lại có thêm "một vài bông hoa" lê trắng, cái sự tinh khôi của đất trời được lên đến đỉnh điểm khi không chỉ một mà là 2 màu sắc xanh tươi và trắng tinh khiết điểm màu. Chữ "điểm" ấy cũng làm cho bức tranh mùa xuân trong thơ ko là tĩnh mà là động (liên hệ với phần thơ chữ Hán của Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tả ở 2 câu này để thấy cái tài Nguyễn Du).

Từ đó liên hệ đến con người, cái tuổi xuân mơn man của Kiều và Vân chắc cũng tươi non như vậy, cái tinh khôi, trong sáng như cái đẹp của mùa xuân, Kiều và Vân (đặc biệt là Kiều) như hoa lê trăng nổi bật và điểm xuyết làm đẹp thêm cho mảng xanh trải dài vô tận ấy.

Bức tranh mùa hè: 2 câu này chị ko rõ lắm, tra trên mạng thì thấy khá là nhiều thông tin, em có thể tham khảo trên đó. Chú ý hình ảnh: trăng, quyên, lửa lựu (màu đỏ); đặc biệt là phép ẩn dụ và ý nghĩa của nó.

Bức tranh muà thu: xem ở đây ^^ >> http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=28910

Bức tranh muà đông:

- "Sen tàn cúc lại nở hoa" : là 1 câu thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên.
"Sen tàn": hoa sen thường là biểu tượng cho mùa hè, ở đây tác giả muốn nói đến mùa hè đã qua.
Cúc nở hoa: hoa cúc là tượng trưng cho mùa thu, "cúc lại nở hoa" ý chỉ đến việc hoa cúc nở và mùa thu về (ở đây có lẽ ko chỉ là tả về bức tranh mùa đông không thôi mà còn nói đến cả là 4 mùa). Nhưng từ "lại" ở đây ta nghe như một sự não nề, chuyển động chậm chạp, luân phiên của vòng tự nhiên. Cứ hết cái này rồi lại tới cái kia, cứ trôi đi như vậy.

Lấy hình ảnh những bông hoa để nói về các mùa >> sự tinh tế trong thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên của ND.

- "Sầu dài ngày ngắn đông đà sang thu": câu thơ càng não nề hơn câu phía trên bởi nỗi buồn đã tận hiến mộc lộ (nỗi buồn Thúc Sinh).
Ngày ngắn là bởi nó là mùa đông, ngày ngắn đêm dài, "sầu dài" cũng như đêm dài ngày đông. Bức tranh chuyển màu từ đông sang xuân luôn gợi lên bao cảm hứng tươi mới cho một sự bắt đầu, nhưng bởi 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ' nên cảnh cũng u sầu theo nhịp chuyển chậm chạp trôi.

>>> Rút ra kết luận chung về 4 bức tranh xuân mà Nguyễn Du khắc họa, với những nét vẽ khác nhau, tác gia đã làm nên 4 bức tranh sống động như thật với những đường nét đặc trưng riêng (nghệ thuật của nó).

Từ đó khẳng định hơn tài năng ND và người buồn thì thấm nguyên vào tâm trạng, ND đúng là người hiểu rõ tâm hồn con người.
 
Top Bottom