Mùa thu:
Không đi chệch với qui ước của người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng buồn, gợi nhớ nhung thương cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif ‘’cúc vàng, giậu thu, sen tàn, lá ngô đồng, rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong bài nghiên cứu về thơ thu Nguyễn Du có kết luận :”Trong Truyện Kiều, mùa thu được miêu tả với nhiều sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp có tàn phai …với trời mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng, sân ngô cành biếc, lá phong nhuộm hồng ...”[25, 214].
Nguyễn Du hoạ tác nhiều những bức tranh mùa thu trong phần Thuý Kiều gặp gỡ Thúc Sinh, Sở Khanh, những mối tình mang tính tạm bợ.
Khảo sát toàn bộ tác phẩm, ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý nghĩa:
- Trong thơ Nguyễn Du, mùa thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy hoặc thời gian có sự xuất hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác định :
Nửa năm hơi tiếng vừa quen, (1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. (1386)
Giậu thu vừa nảy giò sương, (1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi, (1388)
- Thú quê thuần hức, bén mùi, (1593)
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô . (1594)
Sen tàn, cúc lại nở hoa, (1796)
- Mùa thu không chỉ buồn, mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh mông hư ảo:
Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)
- Mùa thu mùa của sự chia tay và tiễn biệt:
Người lên ngựa, kẻ chia bào, (1519)
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san. (1520)
Cái không gian thực nơi chia tay và cái không gian nội tâm như hoà trộn trong một bức tranh thu đặc biệt. Bức tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái, có một sự chuyển màu rất kì diệu thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ sẫm khi rừng phong vào thu. Trong đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người như nhạt nhoà nhỏ bé mờ ảo gần như mất hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc như đang mở rộng đến vô cùng. Không gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái khoảng cách –người lên ngựa và kẻ chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng, cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là sự chuyển biến trong tình cảm –vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình ảnh rừng phong chuyển sắc cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán:“Bán tại giang đầu phong thụ lâm”(Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông)( Tạp ngâm III) hay ”Phong thụ lâm trung diệp loạn phi”(Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây)(Tân thu ngẫu hứng) ”Thu lai thuỳ nhiễm phong lâm thuý”(Trong rừng phong lá thu bay loạn xạ)(Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là những xúc cảm vô hạn của Nguyễn Du trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu biểu cho mùa thu.
Cái màu quan san là màu gì nhỉ ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn hiu hắt và tê tái, màu của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung, tương lai mờ mịt. Nói đúng hơn đây là cái màu không có thực nhưng tồn tại trong tâm linh nàng Kiều. Levitan cũng có một bức hoạ nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó là bức tranh về màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận xét về chất hoạ trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Trần Đăng Xuyền có viết: ’’Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoạ: Không có âm thanh, chỉ có hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa, mỗi lúc một thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng xa dần của người đi kẻ ở. Ba câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu, màu hồng của các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn dâu’’[46,19]
- Không gian vắng lặng thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng buồn đến nao lòng khi một mình một bóng ngồi chép kinh:
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu. (1934)
- Khung cảnh Kiều và Sở Khanh đi trốn càng rùng rợn và vắng lặng hơn. Sắc màu nhợt nhạt khói sương làm Kiều lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoạ đang rình rập:
Đêm thu khắc lậu canh tàn, (1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120)
Lối mòn cỏ nhợt màu sương, (1121)
Lòng quê đi một bước đường một đau. (1122)
Trong toàn bộ bức tranh thu sắc vàng là sắc màu chủ đạo – vàng ngô, vàng cúc, vàng sen, vàng rừng, vàng trăng, vàng đỏ của rừng phong. Những bức tranh có ngày có đêm, có sớm có khuya, có không gian mênh mông cách trở, có gió mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng trong. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở ”màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây khói biếc”.
Trong những bức tranh thu đó có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với những bức tranh sơn thuỷ Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội hoạ có thể xếp bức tranh này vào nhóm tranh thuộc trường phái ấn tượng:
Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng . (1604)
Bức tranh được thêu dệt bằng trí tưởng tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa hư. Khung trời rộng lớn lại ở trong khung nước, xanh trời hoà cùng sắc xanh của nước, xanh núi được rải sắc vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không cao thấp là những hình khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh của khói. Có thể nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoà trộn vào nhau tạo nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong văn học cổ điển. Ngôn từ đã hoá thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành bức tranh, thi phẩm đã thăng hoa thành hoạ phẩm.
”Thơ thu Nguyễn Du không đạt đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng không yên ả thanh bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính...mà đặc quánh những tủi buồn, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường....”[25, 218].
Nhìn chung, mùa xuân và mùa thu là hai mùa được thi hào hoạ tác nhiều nhất, bởi lẽ nó là mùa tình yêu- mùa tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng Kiều-cuộc tình thơ và cuộc tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ ải.
Mùa hè:
Cũng như mùa xuân và mùa thu, mùa hè cũng có những bức tranh đẹp gợi cảm:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè, (1307)
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. (1308)
Khác với các nhà thơ khác miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ trời, gió nồm lồng lộng, bức hoạ mùa hè trong thơ Nguyễn Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắc gọi mùa. Cái rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng gam màu đậm đặc rực rỡ của hoa lựu như đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Sự sống và sắc màu như trổi dậy mạnh mẽ đơm hoa kết trái. Thiên nhiên như khêu gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người ”toà thiên nhiên”
-Mùa hè còn được ghi nhận trong sự vận chuyển màu sắc, sự vận hành của thời tiết chuyển mùa-xuân sang hè, hè sang thu :
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh. (1474)
Sen tàn, cúc lại nở hoa, (1795)
Mùa đông :
Có lẽ đây là mùa thi hào đề cập ít nhất, chỉ một lần duy nhất nhưng nó cũng trở thành“nhân vật” nhằm diễn tả nỗi sầu muộn khắc khoải chờ mong của chàng Thúc đang đếm từng thời gian trôi chày mong ngày gặp lại cố nhân:
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân. (1796)
Tìm đâu cho thấy cố nhân? (1797)
Dưới ngòi bút của thi hào thời gian co giãn rất linh hoạt. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các mùa trong thơ Nguyễn Du, Xuân Diệu có viết:”Bốn mùa chuyển rất thần tình …Với một câu thơ , Nguyễn Du cho diễn ra cả một mùa; với hai câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một năm” [92,136] và có khi là cả ba năm”Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Dù xuân hay hạ, thu hay đông, tất cả đều có những tín hiệu đặc trưng, những gam màu phù hợp: gam màu lạnh chủ yếu là màu xanh thường được dùng cho mùa xuân, gam màu nóng chủ yếu là vàng-đỏ thường được dùng cho mùa thu và hè.
Thiên nhiên dưới ngoài bút thi hào như đẹp hai lần. Ngoài những hình ảnh mang tính ước lệ còn có những sáng tạo, phá rào bất ngờ. Những phá rào ấy thường để lại những kiệt tác có một không hai .
Nguồn: vanchuongviet.org