Văn 8

0

0872

Dưới đây là bài cảm nhận về VB Trong lòng mẹ:

Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.
Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều, khi tất cả tình yêu với mẹ đã được nhà văn giãi bày trên trang giấy.
Một đoạn trích ngắn, một tình yêu vô bờ bến nhà văn dành cho mẹ đã khiến cho bao trái tim trẻ thơ thổn thức. Điều quan trọng hơn, nhà văn đã đem đến cho ta những giờ phút suy ngẫm về vai trò Người Mẹ. Có lẽ vì những ngày thơ ấu in đậm trong hoài niệm đã làm nên một hồn văn nhân ái Nguyên Hồng sau này chăng?
 
L

leo345

"Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.

Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.

Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.

Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.


Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của Lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người Lão Hạc. Nhân vật Lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.


Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với Lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết Lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”. Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như Lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.


Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của Lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về Lão Hạc và người nông dân... “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi ... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”.


Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương.


Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.


Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình.


Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của Lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu ...


Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc...


Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.

Nguồn Bài: http://tuthienbao.com/forum/showthread.php?t=109662#ixzz2SmKJbRe7
 
L

leo345


tat%20den.jpg


Tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Tác giả Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, một người phụ nữ sống trong hoàn cảnh tối tăm cực khổ nhưng có phẩm chất cao đẹp. Ngoài ra, tác giả cũng dựng lên được một chuỗi những tình huống mâu thuẫn giàu kịch tính.Các tình huống ấy đã đẩy chị Dậu vào cái thế quẫn cùng mà vùng lên “nổi loạn”.Sự nổi loạn ấy hoàn toàn tự phát.Đó là sự vùng lên rất tự nhiên của con người khi cái giới hạn chịu đựng đã bị phá vỡ.

Chị Dậu có một cuộc đời bất hạnh. Dù có cố gắng, vất vả làm đây làm đó thì cuộc đời của chị cũng không thay đổi, thậm chí còn tệ hơn trước kia. Cả cuộc đời chị đối diện với những nỗi khổ sở ( chị cần cù làm ăn hết năm này sang năm khác, cùng chồng đấu tắt mặt tối, không dám chơi ngày nào, mà vẫn cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Gia đình ở trong một căn nhà chật hẹp mà chủ nợ còn doạ cắm làm chuồng xí. Với chúng, ngôi nhà ngoài giá trị ấy ra không còn giá trị nào khác. Chị không còn một tài sản nào có thể bán để nộp sưu, ngoài mấy đứa con, đàn chó, hai gánh khoai ...), những nỗi đau xót ( vì phải nhìn đám con ngồi mót khoai, nhưng đã đói vàng cả mắt không nhặt được nữa; đau xót vì phải nghe đứa con van xin “ thầy u đừng bán con”. Đau xót vì phải bỏ cả gia đình, làng mạc lên tỉnh đi ở vú ... ). Nhưng vẫn còn đó những đức tính phẩm chất trong sạch ( chị hi sinh tất cả cuộc đời cho chồng, cho con; chị luôn luôn bảo vệ phẩm cách trong sạch và đã có dũng khí để đấu tranh ... ). Vậy rốt cuộc chị là ai mà lại khổ đến vậy?

Ngày qua ngày, cả gia đình chị chỉ sống bằng những củ khoai. Suốt ngày chỉ ăn khoai mà khoai cũng chẳng đủ cho gia đình ăn. Chỉ ăn những thứ đó thôi thì làm sao mà sống được chứ? Cả gia đình lại phải đối mặt với các thứ thuế thì làm sao sống được?



"Trước Cách Mạng tháng Tám, thuế má là tai họa khủng khiếp nhất đối với người nông dân. Xoáy sâu vào thuế thân - một thứ thuế vô nhân đạo trong chính sách thuế khóa dã man của chế độ thuộc địa, tắt đèn đã phơi bày đến tận cùng bản chất bóc lột xấu xa, bẩn thỉu của thực dân Pháp."



Thuế thân, một thứ thuế bất nhân mà bọn quan lại địa chủ đặt ra hồi bấy giờ. Chị cẩn nhắc đến 2 từ “Thuế thân” là bao nhiêu người nông dân phải rùng mình. Dù thời bấy giờ có làm kẻ trộm thì cũng không đủ ăn, không đủ sống.

Mỗi khi đến mùa sưu, chị đều phải bán sạch mọi thứ có giá trong nhà. Vậy mà năm nay, chị đã bán hết mọi thứ có giá mà cũng chẳng đủ một xuất thuế. CHồng chị vì vậy mà bị bọn cai lệ đến trói rồi bắt đi đập tơi tả ở ngoài đình làng. Anh Dậu đã nhiều lần chết đi sống lại, người thì nhìn cứ như một cái xác chết mà bọn chúng vẫn đánh không thương tiếc. Chị Dậu đành phải bán cái Tý cho gia định Nghị Quế. Tưởng con mình có thế sống tốt ở một gia đình như thế này, nào ngờ gia đình Nghị Quế coi cái Tý chẳng bằng 1 con chó, bắt nó nhặt cơm thừa của chó từ dưới đất lên ăn. Nhưng biết làm thế nào bây giờ? Cái Tý dù cho có sống khổ cực, bị đánh đập, chửi mắng thế nào thì vẫn còn có cái ăn. Còn anh Dậu thì đang vật vờ nửa sống, nửa chết ở Đình Làng. Thồi thì đành phải nhìn con cái khổ cực và cầm lấy tiền nộp sưu cho chồng. May sao số tiền đó vừa đủ để trả xuất sưu cho chồng. Nhưng ************ thay, vận đỏ vừa đến thì vẫn đen lại kéo tới. Anh Dậu còn chưa kịp gói gém đồ đạc mà bọn địa chủ lại bắt chị nộp cả xuất sưu cho chú Hợi, đứa em chồng đã chết từ rất lâu rồi. Tiền cứ thế rơi vào tay bọn chúng mà người thì cũng chẳng được thả ra. Chẳng còn gì đau xót hơn cái cảnh chứng kiến chồng mình bị hành hạ chết dần chết mòn mà chẳng làm gì được.Chỉ đến khi cơ thể anh Dậu chẳng còn giống như một cơ thể con người nữa thì đám cai lệ mới gánh người anh khiêng về nhà.

Về đến nhà, trông anh Dậu chẳng khác gì một cái xác chết. Chị Dậu nhìn cái người anh Dậu còn tưởng anh không thể sống được. May có sự giúp đỡ nhiệt tình của hàng xóm láng giềng ( Bà này bắt thằng Dần cố sức 'rặn đáí ***** vào chậu sành. Ông kia lấy chiếc lược thưa ghè hai hàm răng anh Dậu. Bác nọ múc ít nước ***** đổ vào trong miệng anh ấy. Bà kia bưng chậu nước ***** xoa mãi vào mặt, vào mũi, vào cổ, vào gáy, vào hai thái dương anh tạ Cô nọ chạy về nhà mình lấy ít bồ kếp đốt than để vào cửa mũi người ốm. Chị kia sang nhà bên cạnh xin cái chổi sể châm lửa cho cháy đùng đùng ở giữa nhà ) nên anh Dậu đã may mắn tỉnh lại. Đúng là ở hiền thì sẽ gặp lành mà.

chidau.png

Hình ảnh anh Dậu trong bộ phim "Chị Dậu"

Anh Dậu vừa tỉnh dậy chị Dậu đã nấu ngay một nồi cháo. Nhưng chưa kịp húp tí gì thì đám cai lệ lại đến. Chị Dậu thổn thức cầu xin, bọn cai lệ thỏa sức chửi bới, đánh đập. Nhưng sức chịu đựng của con người cũng chỉ có giới hạn.Khi tên cai lệ cứ vừa thụi vào ngực chị,vừa tát vào mặt chị lại còn sấn sổ lao vào anh Dậu thì cái giới hạn của sự chịu đựng rất mong manh kia òa vỡ.Chị Dậu vùng lên quyết liệt và khỏe mạnh.Chị túm,chị dúi,chị lẳng tên nha dịch bằng sức của đàn bà lực điền và bằng cả sự tức giận của còn giun xéo lâu ngày.Ngay lúc ấy chị không can thiết phải nể sợ ai.Lúc ấy trong chị,sự tức giận trùm lấy đi tất cả. Chị vùng lên và “nổi loạn”.

Vì sự việc này mà chị bị áp giải lên phủ. Nhưng khi lên đến đó, tên quan huyện đã nói giúp cho chị và làm cho chị trắng án. Tưởng mình đã may mắn thoát khỏi rủi ro này nhưng rủi ro khác lại tiếp tục bám lấy chị. Tên quan huyện kia cố tình giúp chị nhưng cũng chỉ vì muốn lợi dụng chị, muốn giở trò đồi bại. Sao trên đời lại có tên "vô liêm sỉ" như hắn ta? Chị quyết không kẻ khác cưỡng bức! Mở cửa, chạy thẳng ra ngoài. Việc làm này cho thấy chị Dậu không vì quyền lực mà bán đi hạnh phúc của đời mình.

Rồi một hôm, bà hàng xóm láng giềng giới thiệu cho chị Dậu nghề làm vú cho một ông cụ đã tầm 80 tuổi. Hàng ngày chị phải vắt sữa cho ông ta. Vào một tối, ông ta lại giở trò đồi bại khiến cho chị không thể chịu nổi, chạy một mạch ra ngoài. Trời tối đen mù mịt, không nhìn thấy gì, chẳng khác gì chạy trên cái cơ đồ của chị.

Nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm " Tắt đèn " có lẽ là nhận vật nữ chính xấu số, có kết cục bi thảm nhất từ trước đến nay. Một người phụ nữ luôn gặp rủi ro. Rủi ro gắn bó với chị suốt cả cuộc rồi như một người "bạn tri kỷ". Người bạn này đã khiến cho chị phải buồn lòng, đau khổ và rồi cuối cùng dẫn kến một cái kết bi thảm.

Tắt đèn là một trong những tiểu thuyết văn học tiêu biết và đặc sắc của Việt Nam ta ở thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Thông qua nhân vật Chị Dậu, tác phẩm này đã có một tác dụng tố cáo lớn, rạch toang cái màn nhung che đậy sự thối nát của bọn quan lại cường hào, địa chủ sống phè phỡn, dâm dục trên xương máu mồ hôi, nước mắt của nông dân.



 
L

leo345

Bác Hồ -vị cha già của dân tộc .Người kgông chỉ được nhắc đến như moọt vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà còn là mộtnhà văn ,nhà thơ lớn .Những vần thơ của bác giàu tính triết lí ,đậm chất thép ,mang đến cho người đọc nhiều suy cảm .Và một trong những bài thể hện rõ nét nhất những đặc điểm ấy của thơ Bác chính là "Đi đường ".Đây là bài thơ thứ 28trong tập "Nhật kí trong tù "của Bác ,sáng tác vào những năm 1942-1943,nhưng đến nay tác phẩm vẫn đang được nhắc đến :

"Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn rùng núi non"

Bài thơ được sáng tác trên đường tác giả bị áp giải từ nhà tù này tới nhà tù khác ,và những ngọn núi cao trên đường đi đã đem lại cảm hứng tạo nên tứ thơ.Cũng có thể bài thơ được viết khi Người nghĩ về chặng đường đời -Chặng đường cách mạng .

Mở đầu bài thơ là những lời thơ nói lên một sự thật hiển nhiên như một lời nhận xét thường tình ,giản dị "Đi đường mới biết gian lao .Câu thơ phảng phất ca dao tục ngữ :"Thức lâu mới biết đêm dài ","Đi đường mới biết đường dài"....Điều này ông cha ta đã đức kết từ bao đời nay ,và Bác cũgn đã rất thấm thía qua bao cuộc "thử lửa " trong đời .Từ những năm đầu thế kỉ XX lên đường cứu nước ,những đêm đông giá buốt ở trời Âu,qua những tháng năm ải khổ lao tù ,nhà cách mạng Hồ Chí Minh đã rút ra được bao kinh nghiệm sống ,đã hình dung đầy đủ cái gian lao trên đường đi tới .Đó là con đường "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng ".Cách dùng điệp từ liên hoàn "núi cao-núi cao-núi cao"ở hai câu thơ thừa và chuyển gợi nên ,vẽ nên vẻ trùng diệp của những dãy núi cao và càn làm ta hiểu rõ cảnh" lộ nan".Viết như vậy ,Bác chỉ như nói lên khách quan một phần mà không nhắc đến cảnh chân tay bị trói khi bị áp giải cũng như những khó khăn khác trong hoạt động cách mạng .

Lại nói về con đường cách mạng trong bài thơ .Những vật cản to lớn trên đường đi tạo rế hiểm trở ,và giữa khung cảnh ấy thì con người thật bé nhỏ biết bao !Gian khổ chồng chất ,điệp trùng tưởng như không thể vượt qua .Vậy mà ý thơ,hình ảnh thơ ở hai câu thơ tiếp theo lại hoàn toàn khác :

"Núi cao lên đến tận cùng

"Thu vào tầm mắt muôn trùng núi non "

Câu thơ đưa ta bay lên đỉnh cao chót vót ,lên đến" tận cùng ".Từ đỉnh cao tuyệt vời ấy ,con ngườ như vượt lên trên tất cả và có thẻ nhìn thật xa ,có thể thu muôn núi sông to lớn ,hùng vĩ vào tầm mắt của mình .Vượt qua mọi thời gian để thâu tóm bao quát cảnh" nước non ",đây là đặc điểm ,là tầm nhìn rộng lớn ,thường thấy trong thơ chủ tịch Hồ Chí Minh .

có thẻ Bác chưa qua hết gian truân ,nhưng hình ảnh đỉnh núi là cái đích để người tự động viên ,để vươn tới .Lên tới đỉnh cao ấy ,có thể bình tĩnh, kiêu hãnh nhìn lại những tận trùng núi non đã vượt .Lên tới đỉnh cao ấy ,con người đạt bước thành cong nhờ" gian nan rèn luyện ".Câu kết đep đẽ của Bác còn gợi lời ca của nhân dân sau này :

"Đèo cao thì mặc đèo cao

"trèo lên đỉnh núi ta cao hơn đèo "

Như vậy ,bài "Đi đường " hàm chứa một lời khuyên bổ ích ,một triết lí sống lớn lao.Nếu hai câu đầu nhắc đến gian lao ,thì hai lại toả sáng niềm vui và niềm tin .Điều nsỳ cho ta thấy tinh thần lạc quan cách mạng ,chất thép trong tư tưởng của Bác .

Không những thế ,bằng những hình ảnh thơ mang đậm hiện thực cảm xúc ,Bác đă để lại bài học đầy ý nghĩa cho bao lớp đời sau :Con người có thắng hoàn cảnh mới tiến lên được ."Đi đường "hình ảnh nghệ thuật với ít nhất hai tầng ý nghĩa :đường ở đây vừa là đườn chuyển lao vừa là đường đời ,đường cách mạng nhiều gian truân ,hiển trở .Nhưng chỉ có con đường đó mới đưa đến đích ,đến đỉnh cao thắng lợi .

Với những lời thơ ngắn gọn ,giàu triết lí ,"Đi đường " ẩn chúa những kinh nghiệm quý ,những vẻ đẹp và gương sáng mà ta cần noi theo .Và cũng chính vì vậy mà bài thơ đã ,đang và sẽ sống mãi với thời gian ,với bao thế hệ độc giả .
 
Top Bottom