van 8

  • Thread starter phamngochieu6a
  • Ngày gửi
  • Replies 4
  • Views 1,292

N

nobeltheki21

Van

Nhớ viết dấu nha em.
Dàn ý
mb:giới thiệu qua về tác giả và vb "lão hạc " và nhân vật lão H.
Tb.
Cần khai thác đủ các ý sau.
-Lão Hạc là 1lão nông dân nghèo khổ bất hạnh.
.vợ ntn?(chết,một thân một mình gà trống nuôi c0n sống bằng cày thuê cuốc mướn,con trai đi phu đồn điền cao su.
.Sống cô đơn tội nghiệp,già yếu ốm đau.
.Sức cùng lực kiệt phải tìm đến cái chết để giải thoát.
-cuộc đời lão là 1số phận ng ndân bị đẩy đn mức đường cùng ko lối thoát.Cái chết của lão là lời tố cáo,lên án xã hội thối nát.
.-Lão hạc là 1 ng sống nhân hậu.
.Mọi ng:tốt,chân thành.
Chó:yêu quý,chăm sóc tỉ mỉ,coi như bn,đau đớn khj phải bán n.
C0n trai:đau đớn bất lực khj ko lo đc hphúc cho c0n.tuyệt vọg khj c0n đi đồn điền. Chọn cách sốg"cho c0n,vì c0n.
Tìm cái chết để gjữ tài sản cho c0n.
.LÃo Hạc là người lươg thjện,gjàu lòng tự trọng.
Thà nhịn đój chứ k tiêu vào tjền of c0n.
Kiên quyết từ chốj m0i sự gjúp đỡ of những ng xq.
Ko muốn hàng xóm phjền lụy khj mìh chết.
Chọn cái chết gjữ phẩ gjá trog sạch of mình.
Kb.Hìh ảh lh đầy ấn tg đậm nét..
Cđời lão là dòng nc mắt chảy dài của những nỗi đau triền miên.
1c0n ng có nhân cách cao quý.
Người đọc xót xa trk cái chết của lão hạc bao nhjêu thj vửng tin vào nhân cách của lão bấy nhjêu.
 
M

magiciancandy

may ban lam ho minh cai de nay voi
NEU CAM NHAN CUA EM VE NHAN VAT LAO HAC:khi (15)::khi (15)::khi (15)::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16:


Mỗi một nhà văn đều có cảm hứng sáng tác riêng của mình. Nam Cao cũng vậy, ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn lấy cảm hứng sáng tác từ những người nông dân trong xã hội cũ, ca ngợi vẻ đẹp nội tâm tiềm tàng của họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tiêu biểu trong số đó.

Vẻ đẹp của những người nông dân nghèo khổ được nhà văn thể hiện một cách khách qua, sâu sắc và truyền cảm qua bức chân dung của Lão Hạc. Trước hết vẻ đẹp ấy bộc lộ ở lối sống tình nghĩa. Lão rất thương “cậu vàng” - tên thân mật lão đặt cho con chó vàng. Đó là kỉ niệm về đứa con trai. Một trận ốm đã khiến cho cuộc sống của lão càng túng bấn, cơm lão ăn mỗi bữa cũng chẳng đủ no nói gì tới việc nuôi thêm con vàng. Cuối cùng lão phải quyết định bán, mặc dù con vàng đã gắn bó với lão trong những ngày lão cô đơn nhất. Có điều lão đã băn khoăn day dứt nhiều lần. Khi sang nhà ông giáo kể về việc bán chó, lão cố tỏ rõ sự vui vẻ, nhưng lão "cười mà như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc". Lão tự trách mình bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó.

Cách một con người, nhất là người nghèo khổ đối xử với một con vật là sự thể hiện nhân cách rõ ràng nhất, bản chất nhất. Chỉ ai sống bằng tình nghĩa, mới biết gắn bó, tri ân dẫu là với một con vật. Chỉ ai cao thượng mới biết xấu hổ, ân hận trước hành vi mà mình coi là phản trắc trước một con vật.

Vẻ đẹp có sức mạnh nhất trong con người là tình thương yêu, đức hi sinh cao cả. Bao trùm tính cách lão Hạc chính là tấm lòng, đứ tính này. Thương con, lão cố gắng dành dụm tiền cho con cưới vợ, cố giữ lấy mảnh vườn cho con, dù cuộc sống có khó khăn, khổ sở thế nào. Lão cố gắng thu vén sao cho không phiền đến người khác. Lão gửi ông giáo ba mươi đồng bạc phòng khi lão chết có tiền làm ma. Lòng tự trọng đã không cho phép lão nhận sự giúp đỡ giấu giếm của ông giáo. Đó là phẩm chất kiên cường của người nông dân nghèo khổ.

Nhưng đau đớn thay, chính những phẩm chất lớn lao này đã dẫn lão đến với cái chết. Lão Hạc chủ động chọn cái chết, nghĩa là lão đã hành động quyết liệt nhất, xả thân để bảo vệ vẻ đẹp con người, vẻ đẹp làm người.

Trong truyện ngắn Lão Hạc, hình ảnh ông giáo cũng ngời sáng. Ông giáo đại diện tiêu biểu cho tình yêu thương, chia xẻ, sự đồng cảm, niềm tin ở vẻ đẹp con người và cũng chính là một vẻ đẹp. Nhất là trong một xã hội mà vì nghèo khổ quá người ta nghi ngờ nhau, không thể đến được với nhau, không tin vào sự tốt đẹp của nhau.

Vẻ đẹp con người trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao được xây dựng trên cảnh nghèo khó của người nông dân trong xã hội cũ. Nhưng đó là vẻ đẹp của con người Việt Nam, nên dẫu thời "đói nghèo trong rơm rạ, văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi" (Chế Lan Viên) này đã qua đi lâu rồi, vẻ đẹp ấy vẫn lung linh ánh sáng và đầy sức lay động.

Nguồn Bài: http://tuthienbao.com/forum/showthread.php?t=109706#ixzz2MeWgY4xL
 
M

magiciancandy

may ban lam ho minh cai de nay voi
NEU CAM NHAN CUA EM VE NHAN VAT LAO HAC:khi (15)::khi (15)::khi (15)::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16:


“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.
(Các) nguồn
Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, ta bùi ngùi thương cảm cho kiếp sống béo bọt nổi lên trên mặt bể hiện tượng, rồi bọ đánh chìm trong quên lãng nghìn đời.
Không ! Cái chết của Lão Hạc dù kết thảm bi thảm như thế nào, lão vẫn giữ lại cho chúng ta bức thông điệp về nổi trăn trở của một con người trong niềm đau nhân cách. Ta không đưa Lão Hạc đên tận huyệt mồ quên lãng, nhưng vẫn thấy sâu thẳm huyệt lòng một niềm rưng rưng không nguôi. Người cha “Thà chết chứ không chịu bán đi một sào…” cái mãnh vườn thân yêu dành cho đứa con khốn khổ. Nam Cao lạnh lùng đẩy nấc thang đạo đức đến ranh giới của thị phi, khiến chúng ta dầu không bắng lòng vẫn không giám vội vàng phê phán.

“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỏ ổi,,, toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giớ ta thấy họ là những người đáng thương…” Nam Cao đã quá thương Lão Hạc. Cái đẹp và cái xấu xa bao giờ cũng là cánh tay của một thân thể, không vì cánh tay trái xấu mà lại đem tay phải chặt đứt cánh tay trái đi, vì chặt đi thì chính thân thể này đau chứ không phải cánh tay đau. Thứ từ bi đầy trí huệ này không phải chỉ giành cho con người, mà đến cả một con chó. Một ngưởi đã khóc vì trót lừa một con chó! Một người như thế có thể lừa được người đạo đức, lừa được cả tên ăn trộm, nhưng tuyệt đối không lừa được chính bản thân mình. “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót binh. Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm đáng buồn!”. Nam Cao tạm ngắt câu chuyện ở đó. Ta chưng hửng: thì ra Lão hạc “cũng ta phết chứ chả vừa đâu”. Chính chung ta cũng bị lừa. Khi con người chưa về với ba tấc đất tì mọi gia trị vẫn chưa xác định. Kẽ vội vàng hoặc ngợi ca, hoặc phê phán. “Không! cuộc đời chưa hẳng đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn mà buồn thepo nghĩa khác”. Theo nghĩa nào vậy” Đó là cái bi đát của thân phận con người? hay sự bất công của Thượng đế? Nam Cao nói lững, không giải thích, không biện minh. Cái văn phong lạnh lùng của hiện thực ấy lại có lúc triêt lý một cách siêu thực đến không ngờ.

Cũng như những nhân vật Thứ trong “Sống Mòn”, Chí Phèo ở làng Vũ Đại trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh đặt sắc- đôi lúc đến dị hợm- nhưng dều đáng thương, họ là những tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến, họ có đời sống bần cùng, nhưng lại có phẩm chất cao đẹp. Cao đẹp chứ không phải “cao thượng”, những cái dõm đáng, nặt thiệp, tế nhị dường như không có chổ đứng trong tác phẩm của Nam Cao. Ông để cho nhân vật Lão Hạc của mình suy nghĩ một cách tầm thường. Lấy vợ cho con mình thì “xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu, chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; lang này đã chết con g con gaiái đâu mà sợ” Thương con đứt ruột nhưng lại bất lực khi thấy con ra đi. “Thẻ của nó người cha giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi”. Tiếng nấc nghẹn ngào bật ra từ đáy lòng của người cha dường như không còn chút gì ấm ức, cam chịu. Lời lẽ ngậm ngùi đó khiến ta có cảm tưởng của một bà mẹ hơn một người cha. Ở đây Nam Cao dựng lên một gười cha bị cái đói khổ đến cùng cực kéo lão ra giữa vòng lẩn quẩn, và lão đã trụ lại một cách vững chãi trên mãnh đất nhân phẩm trơn tru và mờ nhạt, khó mà phân biệt ranh giới của chúng. Tronh cái nền xám xịt âm u đó, Lão Hạc đã chọn cho mình một cái chết. Chết nhưng không rơi vào đáy mồ hư vô chủ nghĩa. Ta lặng lẽ đi phúng điếu Lão Hạc, và cũng ngậm ngùi đón nhận cái nghĩa cử thiêng liêng của lão giành cho người ở lại, “Bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng”. Tình thương lão giành cho người ở lại giường như đã vắt cạn hết lòng tự trọng của một con người, xoá sạch nổi cao ngạo đối với một con chó, và đầy ắp nổi cưu mang đối với giá trị nhân phẩm trót vời của nền luân lý Á Đông. Cái chết của Lão Hạc dù “vật vã trên giường… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”, nhưng ai hiều được cái bên trong tội nghiệp đến rùng mình ấy còn tàn trử một hòn ngọc vô giá lấp lánh rạng ngời niềm vui tiếc hạnh. Có hai người hiểu Lão: một ông giáo và một tên ăn trôm hàng xóm. Chỉ ở hai thái cực luân lý này mới hiểu được con người trong xã hội thực dân nữa phong kiến đầy hư danh thực lợi đó. Nam Cao đã từng trên quan điểm nhân bản của Thánh hiền, lặn sau xuống đáy tột cùng của xã hội để hiểu một con người. Tình thương yêu và sự trong sáng của ông đã được đền bù thoả đáng. Ông thông cảm cho cuộc đời, vì “một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu”. Ở đây ông “chỉ buồn chứ không nở giận”, mà buồn là “… buồn theo một nghĩa khác..” Trong cái bi đát của con người torng xã hội hỗn mang ấy, ông tìm ra một ý nghĩ cho cuộc sống: Tình thuông yêu (Nhân) và lẽ sống cao đẹp (Nghĩa). Ý nghĩa đó là ngôi sao Bắc đẩu lấp lánh rọi đường cho những nhân vật trong truyện của ông mò mẫm đi giữa bối cảnh mờ mịt của chế độ phong kiến thực dân đương thời, nhờ đó họ có thể ngẩng mặt sống trườn qua cơn trốt xoáy ác liệt của hư vô.
 
Top Bottom