[Văn 8] TLV số 6

T

thuha_qn

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

giúp mình với, sắp nộp oy.
Đề: Chứng minh sự tiếp nối và phát triển của ý thức độc lập dân tộc '' Nam quốc sơn hà'' của Lí Thường Kiệt đến đoạn trích '' Nước Đại Việt ta'' trích Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
 
Last edited by a moderator:
E

emerald2728

_Mục đích: khẳng định chủ quyền và nền độc lập của dân tộc ta, khẳng định sự thất bại của mọi kẻ thù xâm lược.
Văn bảnNam quốc sơn hà chỉ cô đọng trong 4 câu thơ, chưa đưa ra nhiều dẫn chứng thuyết phục. văn bản Nước Đại Việt ta đã biết phát triển, đưa ra luận điểm và dẫn chứng thuyết phục về văn hiến, đạ lí, lịch sử để khẳng định nền độc lập của dân tộc, nền tự chủ = lối văn biền ngẫu cân xứng , chặt chẽ. Ý thức dân tộc ở Bình ngô đại cáo sâu sắc vì có 1quan điểm rất đúng về nền văn hiến và truyền thống lịch sử la2 yếu tố cơ bản nhất để xác định nền độc lập dân tộc. Ông khẳng định đế nước Nam ko phải dựa vào phương Bắc đây là bước tiến của tư tưởng Ng. Trãi.
 
S

sam_biba

qua đoạn trích "Nước đại việt ta", Nguyễn Trãi đã biểu một cách hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc. Quan niệm của Nguyễn Trãi la 1 bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc hơn trong học thuyết về quốc gia dân tộc thời trung đại. trong bài thơ nam Quốc sơn hà, ý thức về quốc gia dân tộc được xác dịnh trên 2 yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã mở rộng thêm các yếu tố: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Đặc biệt, ông dưa yếu tố văn hiến lên làm đầu- đó là điều cơ bản nhất để xác định dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa huơn khi bọn phong kiến phương bắc luôn tìm cách phủ định văn hiến nước nam để từ đố phủ định tư cách độc lập của dân tộc ta.
Nói về chủ quyền dân tộc, nguyễn trãi thể hiện 1 ý thức dân tộc, niềm tư hào dân tộc sâu sắc. Niềm tự hào đó dõng dạc vang lên ngay từ câu dâud tiên xưng danh nước việt:"như nước Đại Việt ta tư trước". cách nói này cụ thể hơn so với cách nói nước nam trongv bai nam quốc sơn hà. người ta thương nói đến chữ đế , nói nam đế là có ý sành ngang vơi bắc đế. còn nguyễn trãi khẳng định 1 cách rõ ràng: các triều đại của đại việt từ bao đời đã sánh ngang hàng với các triều đại phương bắc, mỗi bên xưng đế 1 phương.
 
S

sam_biba

Chúng ta đã trải qua những trang lịch sử lâu dài và vẻ vang, tuy từng lúc mạnh yếu khác nhau, nhưng vẫn luôn hiện hữu niềm tự hào trong mỗi người dân Việt Nam về những con người yêu nước, dành trọn tình yêu cho quê hương của họ.Trong số đó, có những vị anh hùng nổi bật như Lý Công Uẩn- tác giả của “Chiếu Dời Đô”, Trần Quốc Tuấn trong “Hịch Tướng Sĩ” và Nguyễn Trãi của “Nươc Đại Việt Ta”.
Kinh đô là trung tâm hành chính, chính trị, là tâm điểm của một đất nước.Khi dời kinh đô đi nơi khác ,người đứng đầu phải có sự hiểu biết sâu rộng về địa hình, có cả sự nhạy bén và can đảm để đi đến quyết định cuối cùng cho bao nhiêu con người sống tại nơi đó.Qua đó, ta mới thấy được tài năng của Lý Công Uẩn- một vị vua anh minh và tài giỏi.
Ông nắm được tình hình, thời vận của quê hương minh, ông muốn mọi thứ dưới quyển hành của ông phải thật tốt đẹp:dân ấm no, đất nước hưng thịnh, thái bình và chính vì vậy, ông dời đô- không có gì là trái với luân lý, trái với quy luật tự nhiên cả.Muốn vậy, việc dời đô là phải tìm một nơi trung tâm của trời đất , địa thế rồng cuộn hổ ngồi và ông đã chọn Đại La.Đại La ở nơi trung tâm đất trời, mở ra bốn hướng Nam- Bắc- Đông – Tây, có núi lại có sông, đất rộng mà bằng phẳng, cao mà thoàng, tránh được nạn lụt lội chật chội, còn là kinh đô cũ của Cao Vương, muôn vật cũng tốt tươi, “xem khắp Việt Nam, chỉ có nơi đây là thắng địa”!Nhìn sâu vào khát vọng của người vua anh minh này, chúng ta mới cảm nhận được tình yêu nước mãnh liệt của ông.Ông luôn đặt hết tình yêu thương, những mong muốn cháy bỏng và dồn hết tải năng của mình cho đất nước, cho quê hương, cho những con người ông xem như con, như cháu, như những người bạn (qua bài Chiếu dời đô, bạn sẽ thấy rõ được điều đó), Lý Công Uẩn chính là một trong những người bước lên và đã có công khiến cho con thuyền Đại Việt băng băng lướt tới. Kính thay!
Tiếp đến là Trần Quốc Tuấn, một vị tướng tài ba, chứng mình lòng yêu nước của mình qua lòng căm thù giặc sâu sắc và ý niệm sẵn sàng hy sinh cho đất nước trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã làm bao người khâm phục.
Là một chủ tướng có lòng yêu nước hào hùng, ông không thể “mắp lấp tai ngơ” trước những hành động tàn bạo của kẻ thù, ông căm thù chúng, làm ông không tiếc lời nhục mạ, cay xé để lên án hành động như nghênh ngang đi lại ngoài đường như một đất nước không vua, “uốn lưỡi củ diều” mà sỉ nhục triều đình, hay thu vét vàng bạc, ngọc lụa để vung đầy túi tham không đáy của chúng.Từ lòng căm thù, chính tôi lại càng xúc động và càm thương người chủ tướng khi ông quên an mất ngủ, đau đớn đến thắt tim thắt ruột, “nước mắt đầm đìa” vì uất ức, chưa trả được mối thù nhà nợ nước.Từ đó, tấm lòng xả thân vì nước, nguyện hy sinh trăm thân này cho quê hương của ông đã được làm nổi bật, làm cho bao con người xúc động và than phục.Có thể vì lẽ đó, ông đã phải nghiêm khắc thức tỉnh các tướng sĩ còn đang sống trong xoa hoa, niềm vui chiến thắng, ông muốn họ phải cùng ông chống lại bọn giặc còn đang lâm le ngoài bờ cõi, ông muốn các tướng sĩ và bao nhiêu đồng bào khác được sống trong ấm no và hưng thịnh, ,được lưu danh ngàn đời.Qua đó, chúng ta mới hiểu được tấm lòng của con người như ông, tấm lòng cao cả và anh minh, tấm lòng yêu nước, thương dân, Hưng Đạo Vương mãi là vị thánh sống trong lòng mọi người, cả xưa và nay.
Trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là bảng tuyên ngôn độc lập mang ý nghĩa lịch sử của cả một đất nước, thể hiện ý thức chủ quyền dân tộc.Tư tưởng nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của của nho giáo trung hoa, được hiểu là lòng thương người, là việc cần làm.Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc, nhưng muốn yên dân thì phải trừ diệt mọi thế lực tàn bạo, làm hại hết dân bỏi nhân nghĩa là gắn liền với việc chống giặc trong lẫn giặc ngoài, bảo vệ cuộc sống nhân dân.Có bảo vệ được dân thì mới thực hiện được mục đích cao cả là yên dân.Trong “Bình ngô Đại cáo”, Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của một đất nước, đồng thời khơi gợi cho chúng ta một niềm tự hào dân tộc cao cả.Điều đó có nghịa là kẻ xâm lược sẽ luôn chuốc lấy thất bại khi có mưu đồ chiếm hữu nước ta, bởi sự độc lập toàn quyền và tư tưởng nhân nghĩa là chân lý, không bao giờ đổi thay.Sức mạnh trong tâm hồn yêu nước, thương dân cao cả của Nguyễn Trãi chứng minh qua bài tuyên ngôn này đã làm cho chúng ta thêm phần nào yêu quý và cảm phục ông hơn.
Chúng ta nên học hỏi và thùa kế truyến thống yêu nước tốt đẹp của ông cha xưa, và không chỉ qua lời nói, chúng ta phải thực hiện = hành động, cho dù là những hành động nhỏ nhất.
Cả baì văn đều như 3 bản hùng ca thể hiện rõ những tấm lòng yêu nước, thương dân qua những cách khác nhau của những con người tài hoa.
 
H

hieufronze1

Lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại . Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hướng quyết định đến vận mệnh đất nước . Đọc lại áng văn “ Chiếu dời đô “ của Lí Công Uẩn và bản hùng văn bất hủ muôn đời “ Hịch tướng sĩ “ của Trần Quốc Tuấn , chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ . Qua đó , chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong trường kì phát triển của dân tộc .
“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là sự tỏ bày ý định từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay) khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế . Sau đó , ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long . Đấy là năm Thuận Thiên thứ nhất – năm khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí – 1 triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi .
Xưa nay , thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của 1 đất nước . Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của 1 dân tộc . Thủ đô có ý nghĩa rất lớn . Dừơng như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế . Mỗi lần dời là một thử thách của dân tộc . Đó phải là quyết định của những đầu óc ưu tú nhất thời đại . Nói cách khác , ko có ý chí quyết tâm lớn , ko có tầm nhìn thấu cả tương lai thì Lí Công Uẩn ko thể nói đến chuyện dời đô .
Mở đầu bài chiếu , nhà vua giải thích tại sao lại dời đô . Và bằng 1 lí lẽ ngắn gọn nhưng sắc sảo , cùng với dẫn chức thiết thực , nhà vua đã khẳng định : việc dời đô ko phải là hành động , là ý chí của 1 người . Nó là biểu hiện cho xu thế tất yếu của lịch sử . Lí Công Uẩn tuyệt vời là đã hiểu được khát vọng của nhân dân , khát vọng của lịch sử . Dân tộc Việt ko chỉ là 1 nước độc lập . Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông , nhân tâm con người phải thu về 1 mối . Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh . Muốn vậy , việc đầu tiên là phải tìm 1 nơi “trung tâm của trời đất” , 1 nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi” . Nhà vua đã rất tâm đắc và hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi nam bắc đông tây” lại “nhìn sông dực núi” . Nơi đây ko phải là miền Hoa Lư chật hẹp , núi non bao bọc lởm chởm mà là “ địa thế rộng mà bằng , đất đai cao mà thoáng” . Như vậy , đây là mảnh đất lí tưởng “ dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt , muôn vật rất mựcphong phú tốt tươi .”Thật cảm động , vị vua anh minh khai mở 1 triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt đã rất quan tâm tới nhân dân . Tìm chốn lập đô cũng vì dân , mong cho dân được hạnh phúc . Trong niềm tin của vua , có 1 kinh đô như vậy , nước Đại Việt sẽ bền vững muôn đời .
Dời đô ra Thăng Long là 1 bước ngoặc rất lớn . Nó đánh dấu sự trường thành của dân tộc Đại Việt . Chúng ta ko cần phải sống phòng thủ , phải dựa vào thế hiểm trở như ở Hoa Lư để đối phó với quân thù . Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên , đưa đất nước trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc . Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời , là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời vậy !
Có thể nói , với trí tuệt anh minh tuyệt vời , với lòng nhân hậu tuyệt vời , nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết phục . Theo em , phần đầu nhà vua đưa ra những lí lẽ thuyết phục là nhờ những bằng chứng sử sách . Nhưng phần sau nhà vua đã đưa ra những suy nghĩ của riêng mình về miền đất mà vua định lập đô , ko chỉ là cho ta thoả mãn về lí trí mà quan trọng hơn là bị thuyết phục bằng tình cảm . Ta bắt gặp ở đây 1 giọng nói đầy nhân từ , tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực . Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ nguyên tính chân lí của nó . Trải qua bao thăng trầm , con rồng bay lên bầu trời Hà Nội vẫn làm cho cả nước bái phục nhân cách , tài năng của Lí Công Uẩn , 1 vị vua anh minh vĩ đại .
“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo , đặc sắc của tổ tiên để lại . Ngôn ngữ trang trọng , đúng là khẩu khí của bậc đế vương . Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam . Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ .
Tiếp theo triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lí Thái Tổ , nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời đại nhà Trần với đầy những chiến công lấp lánh . Những người lãnh đạo thời kì này đều ghi tên mình vào sử sách . Trần Quốc Tuấn , tác giả “Hịch tướng sĩ” là 1 ví dụ . Ông được nhân dân Việt Nam tôn thờ gọi là Đức Thánh Trần . Người hùng này sở dĩ tên tuổi “muôn đời bất hủ” lưu danh trong sử sách , là nhờ những chiến công giữ nước tuyệt vời . Trần Quốc Tuấn gắn tên mình với Bạch Đằng , Chương Dương , Hàm Tử . Là người Là người đã bẻ gẫy ý đồ xâm lược hung hăng của đế quốc Nguyên – Mông . Nhà quân sự kiệt xuất này có những chiến công hiển hách là nhờ ông quan tâm tới vận mệnh nước nhà bằng trái tim ý chí của một anh hùng dân tộc .
Đọc “Hịch Tướng Sĩ” cứ ngỡ như nghe tiếng nói của cha ông , của non nước . Nó nồng nàn 1 tinh thần yêu nước . Nó nồng nàn 1 tinh thần yêu nước , nó biểu hiện 1 lòng câm thù giặc sâu sắc , 1 ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù , ko chỉ là của riêng Trần Hưng Đạo mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc .
Trrước tai hoạ đang đến gần : quân Mông – Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ 2 với quy mô chưa từng thấy hòng ko cho 1 ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50 vạn quân , Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ 1 lòng , chuẩn bị đương đầu với cuộc chiến sống còn . Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm , những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giắc và những việc cần làm để chống giặc .
Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau của dân tộc , nhục cái nhục quốc thể . Viết cho tướng sĩ , nhưng ta thấy ông phơi trải tấm lòng mình . Nổi bật nhất là lòng căm thù giặc . Tác giả thật ngứa mắt khi thấy “sứ giặc đi lại nghênh ngang” , thật ngứa tai khi chúng “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” . Tác giả rất kinh bỉ , đã “vật hoá” chúng , gọi là “dê chó” , là “hổ đói” .“Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm quên vỗ gối , ....
 
C

chansung_8101997

*Ý thức dân tộc
- chủ quyền dân tộc:
+ NQSH: ''Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư'' - nhà nước của vua, dưới quyền của đế vương, ngang tầm vs phong kiến phương bắc. định phận tại thiên thư - từ trước tới h k thay đổi
+ NĐVT: ''việc nhân nghĩa...trừ bạo'' - cũng là nhà nước của vua, do đế cai trị, cốt vì dân, vì nước, yêu dân & thương dân.
''núi sông bờ cõi đã chia...cũng khác''- định sẵn từ trước tới h. ''từ triệu, đinh, lý ...1 phương''
- Lòng tự tôn của dân tộc:
+ NQSH: ''nhu hà nghịch lỗ ...thủ bại hư''- ý chí sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ giang sơn, đất nước
+ NĐVT: ''như nước..đã lâu''- nền văn hiến đã có từ lâu đời
''tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau...cũng có''
''Lưu Cung...Ô Mã''- chiến công oanh liệt & nhằm khẳng định vị thế của đất nước.
 
K

khoaitay_98

Nước Đai Việt ta của Nguyễn Trãi là sự tiếp nối và sự phát triển tính Dân tộc là xuyên suốt và tuyệt đối . Ta thấy hai câu đầu nói lên Nguyên lý nhân nghĩa đó là yêu dân và trừ bạo .Muốn yên dân thì phải trừ diệt mọi thế lực tàn bạo .Ở Nguyễn Trãi so với nho giáo nhân nghĩa trong phạm trù nho giáo chủ yếu là mối quan hệ giữa người với người ,khi vào Việt Nam ,do hoàn cảnh riêng của nước ta thường xuyên phải chống xâm lược ,trong nội dung nhân nghĩa còn có cả mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc ,Cũng như sau này ,cách Nguyễn Trãi 5 thế kỷ ,Hồ Chí Minh trong tuyên ngôn độc lập đã suy rộng ra " suy rộng ra ,câu nói ấy có nghĩa : Ai sinh ra cũng có quyền được mưu cầu hạnh phúc ,cũng được hưởng nền tự do và độc lập .Đó là nhân quyền " Từ quyền sống của con người cá thể ,từ đạo lý mà con người cá thể ấy nên theo mà "suy rộng ra "như vậy là hợp lý với logic của tư duy nhất là nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta ,một dân tộc với nhiều đối tượng nhòm ngó của bao nhiêu thế lực bên ngoài từ Đông sang Tây ,từ Nam đến Bắc .
Tiếp đến chân lý về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt của 8 câu sau .Khi nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm lược thì bảo vệ nền độc lập của đất nước cũng là việc làm nhân nghĩa .Vả chăng có bảo vệ được đất nước thì mới bảo vệ được dân ,mới thực hiên được mục đích cao cả là " yêu dân ".Chính vì vậy sau khi nêu nguyên lý nhân nghĩa .Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lý về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt .Với những yếu tố căn bản -Nền văn hiến lâu đời ( vốn xưng nền văn hiến đã lâu ) ,Cương vực lãnh thổ riêng (Núi sông bờ cõi đã chia ) ,Phong tục tập quán riêng ( Phong tục Bắc _ Nam cũng khác ) _ Nguyễn Trãi đã phát triển một cách hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc .Người đời sau vẫn xem quan niệm của Nguyễn Trãi là sự kết tinh học thuyết về quốc gia ,dân tộc.So với thời Lý phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó ..Nó toàn diện hơn vì : Ý thức về dân tộc trong NQSH được xác định chủ yếu trên 2 yếu tố : lảnh thổ và chủ quyền .Còn đến BNĐC 3 Yếu tố nữa được bổ sung : Văn hiến ,phong tục tập quán ,lịch sử .Nó sâu sắc hơn vì :Trong quan niệm về dân tộc .Nguyễn Trãi đã ý thức đươc" văn hiến " truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất ,là hạt nhân để xác định dân tộc .Điều mà kẻ xâm lược luôn tìm các phủ định ( văn hiến nước Nam ) thì chính là thực tế ,tồn tại với sức mạnh của chân lý khách quan . Rồi đến sức mạnh của nhân nghĩa ,của độc lập dân tộc ( 6 câu cuối ) làm nỗi bậc các chiến công của ta và thất bại của địch ,đồng thời tạo sự cân đối nhịp nhàng cho câu văn giúp người nghe dễ nhớ ,dễ thuộc .Để chứng minh cho tính chất chân lý hiển nhiên ,Nguyễn Trãi dẩn sự thật lịch sử để chứng minh .Đó chính là sức mạnh của nguyên lý nhân nghĩa và chân lý độc lập chủ quyền .Nếu ở bài Sông núi nước Nam ,Lý Thường Kiệt mới chỉ công báo : "Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm .Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư " thì ở đây là nhiều dẩn chứng sinh động ,cụ thể được nêu với giọng văn châm biếm ,khinh bỉ ,khẳng định thất bại của vua quan ,tướng tá TQ Khi chúng cố tình tham lam ,thích bành trướng ,mang tư tưởng nước lớn ,bá quyền ,cố tình đi ngược lại chân lý hiển nhiên thì chuốc lấy bại thảm hại .Những địa danh sông Bạch Đằng ,bến Chương Dương ,cửa Hàm Tử mãi mãi là nấm mồ chôn quân xâm lược .Kẻ thù " thất bại " " tiêu vong " vì động cơ ích kỷ ,vì "thích lớn " " tham công" .Dựa vào tướng giỏi ,quân đông ,không "lấy nhân nghĩa làm gốc "hậu quả ấy không thể tránh khỏi .Đoạn kết khẳng định sự thật oai hùng và vang lên niềm tự hào của dân tộc Đại Việt .Nói tóm lại về ý nghĩa chứng tỏ sự phát triển và trưởng thành thêm một bước về ý thức dân tộc ,lịch sử ,tư tưởng văn hóa của dân tộc Đại Việt đời Lý đến đời Lê ,trải qua 5 thế kỷ :)>-
 
G

goku123123

Để chứng minh cho tính chất chân lý hiển nhiên , Nguyễn Trãi dẫn sự thật lịch sử để chứng minh .Đó chính là sức mạnh của nguyên lý nhân nghĩa và chân lý độc lập chủ quyền .Nếu ở bài Sông núi nước Nam ,Lý Thường Kiệt mới chỉ công báo :
" Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư "
thì ở đây là nhiều dẫn chứng cụ thể ,sinh động ,được nêu với giọng văn châm biếm ,khinh bỉ ,khẳng định thất bại của vua quan ,tướng tá TQ khi chúng cố tình tham lam ,thích bành trướng ,mang tư tưởng nước lớn ,bá quyền ,cố tình đi ngược lại chân lý hiển nhiên thì chỉ chuốc lấy bại thảm hại .Những địa danh sông Bạch Đằng ,bến Chương Dương ,cửa Hàm Tử mãi mãi là nấm mồ chôn quân xâm lược .Kẻ thù thất bại ,tiêu vong vì động cơ ích kỷ ,vì " thích lớn " ,"tham công " .Dựa vào tướng giỏi ,quân đông ,không " lấy nhân nghĩa làm gốc " , hậu quả ấy không thể tránh khỏi .
Hai câu kết đoạn có ý nghĩa : Khẳng định sự thật oai hùng và vang lên niềm tự hào của dân tộc Đại Việt .Ở đoạm kết vưa có cái nguyên cớ của sự bại vong như những hiện vật trong viện bảo tàng ,với kẻ địch là một sự nhục nhã muôn đời khôn rửa ,còn với ta ,đó là minh chứng cho một lẽ phải hùng hồn mà dân tộc Đại Việt đã gửi trọn niềm tin vào đó . Lời tiên tri ( 2 câu đầu ) đã có ứng nghiệm theo luật quả báo ( nhân nào quả ấy ) tứ thời .
Nói tóm lại ,về ý nghĩa ;chứng tỏ sự phát triển và trưởng thành thêm một bước về ý thức dân tộc ,lịch sử ,tư tưởng ,văn hóa của dân tộc Đại Việt từ đời Lý đến đời Lê ,trải qua 5 thế kỷ
Cách lập luận này cho thấy bài cáo cần có tính logic cao độ .Phía sau phần "Từng nghe " là những chân lý đã được kiểm định vững chắc trong lịch sử .còn "vậy nên " là kết quả tất yếu phù hợp với tiền đề " từng nghe " đã nói ở trên .Những dẫn chứng thực tiển đó là chứng cớ còn ghi trong sử sách không thể bác bỏ ,không thể chối cãi .Hai cặp phạm trù logic kín kẻ : Khi nói đến nguyên lý nhân nghĩa thì Nguyễn Trãi viết " từng nghe " ;còn khi khẳng định sức mạnh nhân nghĩa sức mạnh của độc lập dân tộc thì ông dùng từ " còn ghi " ( sử sách ghi lại không thể chối cải ) .Chính xác hơn ,được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ nhân quả
Vơi cách lập luận chặt chẽ và chứng cứ hùng hồn ,đoạn trích Nước Đại Việt ta có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta .Bề nỗi của lời văn là sụ nghiêm khắc răn dạy ,còn chiều sâu thấm thía một đạo lý ,một tư tưởng ,một lẽ phải làm người : Nhân nghĩa .Vậy Nước Đại Việt ta có sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc ở bài thơ Nam Quốc Sơn Hà
:) :) :) :) :) :) :) :) :)
 
H

huyvjpqua

Chúng ta đã trải qua những trang lịch sử lâu dài và vẻ vang, tuy từng lúc mạnh yếu khác nhau, nhưng vẫn luôn hiện hữu niềm tự hào trong mỗi người dân Việt Nam về những con người yêu nước, dành trọn tình yêu cho quê hương của họ.Trong số đó, có những vị anh hùng nổi bật như Lý Công Uẩn- tác giả của “Chiếu Dời Đô”, Trần Quốc Tuấn trong “Hịch Tướng Sĩ” và Nguyễn Trãi của “Nươc Đại Việt Ta”.
Kinh đô là trung tâm hành chính, chính trị, là tâm điểm của một đất nước.Khi dời kinh đô đi nơi khác ,người đứng đầu phải có sự hiểu biết sâu rộng về địa hình, có cả sự nhạy bén và can đảm để đi đến quyết định cuối cùng cho bao nhiêu con người sống tại nơi đó.Qua đó, ta mới thấy được tài năng của Lý Công Uẩn- một vị vua anh minh và tài giỏi.
Ông nắm được tình hình, thời vận của quê hương minh, ông muốn mọi thứ dưới quyển hành của ông phải thật tốt đẹp:dân ấm no, đất nước hưng thịnh, thái bình và chính vì vậy, ông dời đô- không có gì là trái với luân lý, trái với quy luật tự nhiên cả.Muốn vậy, việc dời đô là phải tìm một nơi trung tâm của trời đất , địa thế rồng cuộn hổ ngồi và ông đã chọn Đại La.Đại La ở nơi trung tâm đất trời, mở ra bốn hướng Nam- Bắc- Đông – Tây, có núi lại có sông, đất rộng mà bằng phẳng, cao mà thoàng, tránh được nạn lụt lội chật chội, còn là kinh đô cũ của Cao Vương, muôn vật cũng tốt tươi, “xem khắp Việt Nam, chỉ có nơi đây là thắng địa”!Nhìn sâu vào khát vọng của người vua anh minh này, chúng ta mới cảm nhận được tình yêu nước mãnh liệt của ông.Ông luôn đặt hết tình yêu thương, những mong muốn cháy bỏng và dồn hết tải năng của mình cho đất nước, cho quê hương, cho những con người ông xem như con, như cháu, như những người bạn (qua bài Chiếu dời đô, bạn sẽ thấy rõ được điều đó), Lý Công Uẩn chính là một trong những người bước lên và đã có công khiến cho con thuyền Đại Việt băng băng lướt tới. Kính thay!
Tiếp đến là Trần Quốc Tuấn, một vị tướng tài ba, chứng mình lòng yêu nước của mình qua lòng căm thù giặc sâu sắc và ý niệm sẵn sàng hy sinh cho đất nước trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã làm bao người khâm phục.
Là một chủ tướng có lòng yêu nước hào hùng, ông không thể “mắp lấp tai ngơ” trước những hành động tàn bạo của kẻ thù, ông căm thù chúng, làm ông không tiếc lời nhục mạ, cay xé để lên án hành động như nghênh ngang đi lại ngoài đường như một đất nước không vua, “uốn lưỡi củ diều” mà sỉ nhục triều đình, hay thu vét vàng bạc, ngọc lụa để vung đầy túi tham không đáy của chúng.Từ lòng căm thù, chính tôi lại càng xúc động và càm thương người chủ tướng khi ông quên an mất ngủ, đau đớn đến thắt tim thắt ruột, “nước mắt đầm đìa” vì uất ức, chưa trả được mối thù nhà nợ nước.Từ đó, tấm lòng xả thân vì nước, nguyện hy sinh trăm thân này cho quê hương của ông đã được làm nổi bật, làm cho bao con người xúc động và than phục.Có thể vì lẽ đó, ông đã phải nghiêm khắc thức tỉnh các tướng sĩ còn đang sống trong xoa hoa, niềm vui chiến thắng, ông muốn họ phải cùng ông chống lại bọn giặc còn đang lâm le ngoài bờ cõi, ông muốn các tướng sĩ và bao nhiêu đồng bào khác được sống trong ấm no và hưng thịnh, ,được lưu danh ngàn đời.Qua đó, chúng ta mới hiểu được tấm lòng của con người như ông, tấm lòng cao cả và anh minh, tấm lòng yêu nước, thương dân, Hưng Đạo Vương mãi là vị thánh sống trong lòng mọi người, cả xưa và nay.
Trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là bảng tuyên ngôn độc lập mang ý nghĩa lịch sử của cả một đất nước, thể hiện ý thức chủ quyền dân tộc.Tư tưởng nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của của nho giáo trung hoa, được hiểu là lòng thương người, là việc cần làm.Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc, nhưng muốn yên dân thì phải trừ diệt mọi thế lực tàn bạo, làm hại hết dân bỏi nhân nghĩa là gắn liền với việc chống giặc trong lẫn giặc ngoài, bảo vệ cuộc sống nhân dân.Có bảo vệ được dân thì mới thực hiện được mục đích cao cả là yên dân.Trong “Bình ngô Đại cáo”, Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của một đất nước, đồng thời khơi gợi cho chúng ta một niềm tự hào dân tộc cao cả.Điều đó có nghịa là kẻ xâm lược sẽ luôn chuốc lấy thất bại khi có mưu đồ chiếm hữu nước ta, bởi sự độc lập toàn quyền và tư tưởng nhân nghĩa là chân lý, không bao giờ đổi thay.Sức mạnh trong tâm hồn yêu nước, thương dân cao cả của Nguyễn Trãi chứng minh qua bài tuyên ngôn này đã làm cho chúng ta thêm phần nào yêu quý và cảm phục ông hơn.
Chúng ta nên học hỏi và thùa kế truyến thống yêu nước tốt đẹp của ông cha xưa, và không chỉ qua lời nói, chúng ta phải thực hiện = hành động, cho dù là những hành động nhỏ nhất.
Cả baì văn đều như 3 bản hùng ca thể hiện rõ những tấm lòng yêu nước, thương dân qua những cách khác nhau của những con người tài hoa.
 
M

maianh6atgt

123

qua đoạn trích "Nước đại việt ta", Nguyễn Trãi đã biểu một cách hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc. Quan niệm của Nguyễn Trãi la 1 bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc hơn trong học thuyết về quốc gia dân tộc thời trung đại. trong bài thơ nam Quốc sơn hà, ý thức về quốc gia dân tộc được xác dịnh trên 2 yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã mở rộng thêm các yếu tố: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Đặc biệt, ông dưa yếu tố văn hiến lên làm đầu- đó là điều cơ bản nhất để xác định dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa huơn khi bọn phong kiến phương bắc luôn tìm cách phủ định văn hiến nước nam để từ đố phủ định tư cách độc lập của dân tộc ta.
Nói về chủ quyền dân tộc, nguyễn trãi thể hiện 1 ý thức dân tộc, niềm tư hào dân tộc sâu sắc. Niềm tự hào đó dõng dạc vang lên ngay từ câu dâud tiên xưng danh nước việt:"như nước Đại Việt ta tư trước". cách nói này cụ thể hơn so với cách nói nước nam trongv bai nam quốc sơn hà. người ta thương nói đến chữ đế , nói nam đế là có ý sành ngang vơi bắc đế. còn nguyễn trãi khẳng định 1 cách rõ ràng: các triều đại của đại việt từ bao đời đã sánh ngang hàng với các triều đại phương bắc, mỗi bên xưng đế 1 phương.
 
Top Bottom