[Văn 8] Tập làm văn số 6 ?

  • Thread starter buinhutminhltkag
  • Ngày gửi
  • Replies 5
  • Views 27,105

B

buinhutminhltkag

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Thứ 2 tuần sau mình phải làm bài viết số 6 rồi, mà giờ không biết viết sao dù có dàn ý, các bạn xem dàn ý của thầy mình rồi làm giúp mình bài văn nha, mình cảm ơn nhiều:

Đề 1: Dựa vào văn bản Chiếu Dời đô, hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò cũa người lãnh đạo anh minh Lí Công Uẩn đối với vận mệnh đất nước

Còn đây là dàn ý đề 1

Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phầm Lý Công Uẩn, Hoàn cảnh sáng tác
- Nêu vấn đề nghị luận: Vai trò của lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh của đất nước
- Câu chuyển ý
2. Thân bài:
* giải thích
- giải thích nghĩa đen: Lãnh đạo là gì? Thanh minh là gì? Thế nào là vận mệnh đất nước?
- Nghĩa bóng: Mối quan hệ chặt chẽ với lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh đất nước
* Phần bình: Khẳng định vấn đề đúng sai
- Nêu 2 vấn đề trên theo hướng tịch cực thì đất nước sẽ phồn thịnh phát triển (vấn đề tích cực đúng hướng)
- Ngược lại thiếu cách nhìn sâu sắc duy ý chí thì sẽ dẫn đến lạc hậu sai lầm gây hậu quả xấu

* Phần luận: mở rộng vấn đề - chứng minh
- Tầm nhìn xa trong rộng khi quyết định dời kinh đô
- Lấy dẫn chứng trong văn bản (phần 1)
- Chọn vị trí dời kinh đô (phần 2)
- Thực tế cho vai trò lãnh đạo đất nước khi cả nước tổ chức mừng đại lễ 1000 năm thăng long hà nội và vị thế sau này
3. Kết bài:
- Nêu suy nghĩ khái quát của người viết qua phần suy luận trên
- Đề xuất ý kiến mới (nếu có).

Đề 2: Dựa vào văn bản Hịch Tướng sĩ, hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò cũa người lãnh đạo anh minh Trần Hưng Đạo đối với vận mệnh đất nước

Còn đây là dàn ý đề 2
1. Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác bài đọc
- Nêu vấn đề cần nghị luận vai trò của người lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh của đất nước khi có nguy biến của giặc ngoại xâm
- Câu chuyển ý
2. Thân bài:
• Giải thích nghĩa
- Nghĩa đen: lãnh đạo là gì? Anh minh là gì? Thế nào là lãnh đạo anh minh? Vận mệnh đất nước là gì?
- Nghĩa bóng: mối quan hệ chặt chẽ của 2 vấn đề Lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh đất nước
• Phần bình: Khẳng định vấn đề đúng sai
- Vấn đề đúng: ý thức được đất nước dân tộc hay quân thù xâm lược thì nhân dân sẽ anh lành hạnh phúc đất nước
- Vấn đề sai:
+ hạn chế: sự thờ ơ bàng quan ngại khó khan gian khổ hi sinh đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh thì nhân dân điêu đứng nước mất nhà tan hậu quả xấu. Sự phê phán thái độ với xã tắc, giang sơn
• Phần luận: Mở rộng vấn đề- văn chứng minh
- Ca ngợi các gương trung thần nghĩa hiệp các bật tiền nhân để khích lệ cổ vũ (Phần 1)
- Nhận định về tội ác của giặc và nổi lòng của tác giả (Phần 2)
- Nêu lên mối ân tình chủ - tứ khi thời bình và thời chiến (Phần 3)
- Chủ trương hành động đúng và phê phán thái độ sai trái của tướng sĩ để ra lời kêu gọi cho hành động đúng (Phần 4)
- Sự thể hiện về vai trò lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh đất nước khi sử sách lưu danh và sự thờ cúng nhiều nơi trên tổ quốc
3. Kết bài:
- Nêu khái quát qua bài viết về Nội dung và nghệ thuật
- Nêu suy nghĩ của người viết và đề xuất ý kiến mới (nếu có)
Chú ý : mem không được dùng mực đỏ
Đã sửa.Thân
 
Last edited by a moderator:
K

khoctrongmua1999

lam moc tkui nke ban...

Với những ý nghĩa và vai trò của “ Chiếu dời đô” thế hệ đi sau chúng ta thật tự hào về một ông vua sáng suốt, anh minh mang lại cho chúng ta sự tự hào về, cuộc sống ấm no hạnh phúc hôm nay. Nhưng sự anh minh của một vị vua cũng không đủ đem lại độc lập tự do dân tộc mà phải nhờ đến những vị tướng tài như Trần Quốc Tuấn – Hưng Đạo vương đời nhà Trần, cũng với sự anh minh, sáng suốt của ông đã lãnh đạo nhân dân ba lần đánh tan quân Mông- Nguyên, làm xoay chuyển vận mệnh của cả một dân tộc. Trần Quốc Tuấn không chỉ anh minh trong đường lối đánh giặc mà ông còn là người mưu lược tài cao.Ông đã bày mưu kế đưa hai vị vua từ Thăng Long về Hoa Lư để bảo toàn lực lượng, vừa tranh sức mạnh mẽ của quân thù.Khi giặc sang ông tỏ thái độ rất căm tức: “Ngó thấy sữ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phu”, ông dùng những từ ngữ, câu văn lên án gay gắt thái độ của giặc cũng như thể hiện nỗi căm giận của lòng ông.Ông lấy việc phải dùng nhạc thái thường để hầu giặc là điều vô cùng nhục nhã của bậc quân thần.Ông chỉ ra những điều làm cho lòng người sôi sục, tâm can nhục nhã khi không làm gì trước tình cảnh đất nước bị dày xéo, chà đạp. Đây chính là sự sáng suốt anh minh của vị tướng tài: ông đã thức tỉnh tướng sĩ đang ngủ say trong cuộc vui trước mắt ( chọi gà, đánh bạc, vợ con, lo làm giàu, vườn ruộng, uống rượu, mê hát), lo toan chuyện nước nhà. Ông thấy được việc trên dưới đồng lòng cùng đồng tâm chống giặc sẽ tạo nên một sức mạnh to lớn, cho dù binh to búa lớn cũng không phá vỡ được tinh thần yêu nước sục sôi, long căm thù sâu sắc. Chỉ với cái nhìn đúng đắn ấy của ông mà nước Việt ta bao lần thắng giặc với thế lớn, binh nhiều. Lúc bấy giờ ông trở thành người có vai trò quan trọng hơn cả với đất nước, là người có trách nhiệm tập hợp lòng dân, nghĩa sĩ. Và để làm được điều ấy ông đã viết bài “Hịch tướng sĩ” mở đầu cho công cuộc xây dựng tinh thần cho tướng sĩ. Bài hịch đã trở thành áng văn bất hủ, là đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nước có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết tôn thất, làm cho ý chí chống giặc của nhân dân, tướng sĩ lên đến đỉnh điểm. Cũng như vạch ra con đường đi đúng đắn cho đất nước theo đường lối sáng suốt của Trần Quốc Tuấn.

Qua những gì mà hai bậc hiền tài, anh minh của dân tộc đã làm cho đất nước thể hiện rõ ràng tầm quan trọng của họ trong những thời mốc điểm của đất nước. Ảnh hướng to lớn của những vị ấy không chỉ trong lúc bấy giờ mà còn ảnh hưởng đến đời sau - chúng ta. Nếu không có những người lãnh đạo anh minh như thế thì liệu đất nước ta có còn tồn tại, nhân dân có được độc lập, tự do, hạnh phúc như hôm nay?

Với riêng bản thân tôi cũng như nhiều người khác, lòng biết ơn đến những nhật vật anh minh như họ và tự hào bởi họ là những gì mà thế hệ sau như chúng ta luôn mong muốn được đền đáp ơn này. Những ngày kỉ niệm, những di tích lịch sử ghi lại dấu ấn của họ được chúng ta gìn giữ là điều thể hiện rõ nhất trong sự tôn kính, lòng biết ơn đối với những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn.

Kết quả của sự lãnh đạo anh minh của các vị tướng tài, vua giỏi Trần Quốc Tuấn và Lí Công Uẩn là cuộc sống tốt đẹp của nhân dân ta từ thời ấy đến bây giờ. Một lần nữa xin khẳng định lại tầm quan trọng của những vị ấy là vô cùng to lớn đối với giang sơn, đất nước ta. Những vị ấy đã cố gắng gìn giữ và gây dựng đất nước thì con cháu ta phải cùng nhau dựng nước vững mạnh hơn.
:):):)
 
V

vuongchomo

1ựa vào văn bản “Chiếu dời đô” và “Hịch tướng sĩ” hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với vận mệnh của đất nước.

BÀI LÀM

Lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại . Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hướng quyết định đến vận mệnh đất nước . Đọc lại áng văn “ Chiếu dời đô “ của Lí Công Uẩn và bản hùng văn bất hủ muôn đời “ Hịch tướng sĩ “ của Trần Quốc Tuấn , chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ . Qua đó , chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong trường kì phát triển của dân tộc .



“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là sự tỏ bày ý định đời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế .Xưa nay , thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của 1 đất nước . Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của 1 dân tộc . Thủ đô có ý nghĩa rất lớn . Chính vì vậy mà sau khi lên ngôi vua, việc đâu tiên mà ông nghĩ đến là việc dời đô. Vì theo sử sách nhà Thương đã 5 lần dời đô, nhà Chu cũng 3 lần dời đô, nhằm mưu toan việc lớn, xây dựng vương triều phồn thịnh. cho nên các triều đại làm cho vận nước lâu dài, phát triển thịnh vương. Đó chính là việc làm của vị vua yêu nước thương dân.

Khi nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, không dời đô cho nên triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ hao tốn, điều đó đã khiến Lý Công uẩn rất đau xót. Đó là tấm lòng yêu nước của Lý Công Uẩn, đau xót trước vận mệnh ngắn ngủi của những triều đại đã qua.

Ông thông minh tài giỏi nên ông có thể nhìn thấy được thành Đại La hội đủ yếu tố, xứng đáng một kinh đô bậc nhất, đế vương muôn đời. Thành Đại La ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đã đúng nơi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng phẳng đất cao mà tháng. Dân cư thoát khỏi cảnh ngập lụt, muôn vật tốt tươi.... Quả là Lý Công Uẩn có cái nhìn thật sáng suốt. Thật cảm động , vị vua anh minh khai mở 1 triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt đã rất quan tâm tới nhân dân . Tìm chốn lập đô cũng vì dân , mong cho dân được hạnh phúc . Trong niềm tin của vua , có 1 kinh đô như vậy , nước Đại Việt sẽ bền vững muôn đời .
Có thể nói , với trí tuệt anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời , nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết phục . phần đầu nhà vua đưa ra những lí lẽ thuyết phục là nhờ những bằng chứng sử sách . Nhưng phần sau nhà vua đã đưa ra những suy nghĩ của riêng mình về miền đất mà vua định lập đô , ko chỉ là cho ta thoả mãn về lí trí mà quan trọng hơn là bị thuyết phục bằng tình cảm . Ta bắt gặp ở đây 1 giọng nói đầy nhân từ , tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực . Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ nguyên tính chân lí của nó . Trải qua bao thăng trầm , con rồng bay lên bầu trời Hà Nội vẫn làm cho cả nước bái phục nhân cách , tài năng của Lí Công Uẩn , 1 vị vua anh minh vĩ đại .

“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo , đặc sắc của tổ tiên để lại . Ngôn ngữ trang trọng , đúng là khẩu khí của bậc đế vương . Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam . Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ .

Tiếp theo triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lí Thái Tổ , nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời đại nhà Trần với đầy những chiến công lấp lánh . Những người lãnh đạo thời kì này đều ghi tên mình vào sử sách . Như Trần Quốc Tuấn , tác giả “Hịch tướng sĩ”. Trước tai hoạ đang đến gần : quân Mông – Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ 2 với quy mô chưa từng thấy hòng ko cho 1 ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50 vạn quân , Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ 1 lòng , chuẩn bị đương đầu với cuộc chiến sống còn .

Trần Quốc Tuấn luôn luôn khâm phục những bậc nghĩa sĩ trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân . Ông mượn những tấm gương đó dí nói lên tình hình đất nước ta lúc bấy giờ đang bị giặc Nguyên mông lăm le xâm chiếm thì rất cần những tấm gương hi sinh vì nước để bảo vệ từng tấc đất cho nhân dân . Ông tố cáo tội ác của kẻ thù với mọi nhân dân, với triều đình ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi diều mà sỉ mắng triều đình,Thu vàng bạc, vét của kho…. Tác giả rất kinh bỉ , đã “vật hoá” chúng , gọi là “dê chó” , là “hổ đói”. Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau của dân tộc , nhục cái nhục quốc thể . Viết cho tướng sĩ , nhưng ta thấy ông phơi trải tấm lòng mình. Ngày ngày nhìn sứ giặc như thế TQT ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa và ông sẵn sàng xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù. Lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết không tha giặc, phải trừng trị bọn xâm lược, bảo vệ bờ cõi. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nơi cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa , ông cũng cảm thấy vui lòng. giọng đanh thép hung hồn, thể hiện hạnh phúc to lớn của một vị lãnh đạo yêu nước, nông nàn, sẵn sáng hiến dâng xương máu cho Đại Việt.

Đứng trước tình cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc , TQT phê phán nghiêm khắc những lối sống hưởng lạc nhưng ông cũng tỏ rõ sự quân tâm đến các tướng sĩ , ông cho họ ăn mặc, xe cộ , thuyền ….. sự quan tâm đó sẽ thắt chặt tình cảm giữa chư và tướng . Nếu các tướng sĩ không nghe theo lời thần chư thì hiểm họa trước mắt thật đau xót : “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt , đau xót biết cừng nào ”. Ông đã kêu gọi học binh thư yếu lược để các tướng sĩ học theo từ bỏ lối sống xa hoa , chuyên chăm vào việc rèn luyện võ nghệ để cùng nhau chống giặc. Nếu biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo thì mới phải đạo “thần”- “chủ” và lập trường “nghịch”-“thù”.Bằng Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm , những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giắc và những việc cần làm để chống giặc.



Nói tóm lại, cả hai bài chiếu dời đô và hịch tướng sĩ đều thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của những vị lãnh đạo anh minh. Bài Chiếu dời đô là bài văn tiêu biểu cho nghệ thuật lập luận trong văn nghị luận. Còn Hịch tướng sĩ là áng văn chính luận, hung hồn, đanh thép, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng của dân tộc Đại Việt ở thế kỉ XIII.
 
J

jibjab

Đề bài: Dựa vào văn bản "Chiếu dời đô" và "Hịch tướng sĩ", hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với vận mệnh đất nước.

Bài làm

Lịch sử Việt Nam trong các triều đại phong kiến suy có, thịnh có, và có những trang sử vàng chói lọi của mình với đầy những chiến công lấp lánh chống giặc ngoại xâm cùng tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hướng quyết định đến vận mệnh đất nước. Tiêu biểu nhất ta phải kể đến là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và vua Lý Công Uẩn, những nhà lãnh đạo anh minh sáng suốt bậc nhất trong lịch sử nước nhà.

Một vị vua, một vị tướng, nhưng cả hai đều có tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng, trí tuệ hơn người và đặc biệt là luôn quan tâm đến việc chăm lo hạnh phúc lâu bền của nhân dân, mà trong đó thể hiện rõ nhất ở tác phẩm "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn và "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn.

"Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là sự tỏ bày ý định từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay) khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế. Sau đó, ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long. Đấy là năm Thuận Thiên thứ nhất – năm khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí – một triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi.
Xưa nay đều vậy, thủ đô là trung tâm về văn hoá, chính trị của một đất nước. Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc, do đó nó có ý nghĩa rất lớn. Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế. Mở đầu bài chiếu, ông viện dẫn sử sách Trung Quốc, nói về việc các vua đời xưa ở Trung Quốc cũng từng có các cuộc dời đô, nhờ đó mà "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Ngay sau đó, ông cũng viện dẫn sử sách nước nhà, lấy dẫn chứng rằng hai triều Đinh, Lê do không chịu chuyển dời mà khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". Ông thể hiện tâm trạng của mình: "rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi", đó là tấm lòng của một ông vua hết lòng lo lắng cho dân, cho nước. Bằng lí lẽ ngắn gọn, sắc sảo của mình, nhà vua đã khẳng định rằng, việc dời đô không phải là theo ý riêng của một con người, mà là "thuận theo mệnh trời, hợp với lòng dân", biểu hiện cho xu thế lịch sử. Nước Đại Việt ta lúc ấy đã là một quốc gia độc lập. Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông, nhân tâm con người phải thu về một mối. Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh. Muốn vậy, việc đầu tiên là phải tìm một nơi “trung tâm của trời đất”, một nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi”. Nhà vua đã rất tâm đắc và hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi nam bắc đông tây” lại tiện “nhìn sông dựa núi". Nơi đây không phải là miền Hoa Lư chật hẹp, núi non bao bọc lởm chởm mà là chốn Đại La “địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng”. Như vậy, đây là mảnh đất lí tưởng nhất, ở nơi đây, “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Quả thực Lý Công Uẩn rất quan tâm tới nhân dân. Tìm chốn lập đô cũng vì muốn nhân dân được ấm no hạnh phúc. Theo như ông, có một kinh đô như vậy, nước Đại Việt sẽ muôn đời bền vững. Sự chuyển dời ấy cũng tạo ra một bước ngoặt rất lớn đối với vận mệnh đất nước. Nó đánh dấu một bước phát triển mới của dân tộc Việt Nam: chúng ta không còn phải sống phòng thủ, không còn phải dựa vào thế hiểm trở như ở Hoa Lư để đối phó với quân thù. Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc. Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời, là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời vậy!

Với trí tuệ anh minh, lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định dời đô một cách hết sức thuyết phục. Ông biết rằng chỉ dùng sử sách thì khó có thể thuyết phục quan thần, vậy nên trong phần sau của văn bản, ta bắt gặp một giọng nói đầy nhân từ, tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực. Ông không bắt các quan và nhân dân phải dời đô theo ý mình mà thậm chí còn hỏi han, nghe ngóng tình hình, quan tâm, tiếp thu cả ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói rằng Lí Công Uẩn là một vị vua hết sức anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng, đặt hạnh phúc lâu bền của nhân dân làm mục đích cho hành động, việc làm của mình nhằm xây dựng được triều đại hưng thịnh, có vai trò quan trọng trong lịch sử.

Theo sau triều đại vẻ vang nhà Lí là đến nhà Trần, với những trang sử vàng phủ đầy các chiến công giữ nước lấp lánh. Ba đời vua Trần, trăm vạn binh tướng, mười triệu dân Đại Việt kí thác vận mệnh vào những nhà lãnh đạo của mình. Trong đó quan trọng nhất phải nói đến là Đức Thánh Trần - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ông đã thể hiện mình cũng rất quan tâm đến hạnh phúc của muôn dân. Nhưng lại không giống như vua Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn là một vị tướng, vậy nên sự quan tâm của ông được thể hiện ở một góc độ khác, ta sẽ tìm hiểu điều này qua áng văn "Hịch tướng sĩ" bất hủ của ông.

Mở đầu bài hịch, ông nêu gương các trung thần nghĩa sĩ thời xưa: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh,... Ông đã khẳng định rằng các trung thần nghĩa sĩ đời nào cũng có, và đồng thời ám chỉ rằng nếu như Trung Quốc có thì Đại Việt cũng phải có. Sau đó, ông tiếp tục viện sử thời Tống, Nguyên gần đó với ý định khẳng định điều mình vừa nói là sự thực với những dẫn chứng gần gũi hơn. Đó là một hành động hết sức khôn ngoan, sáng suốt khi đánh vào lòng tự tôn của binh sĩ, bởi nó sẽ làm khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, lòng yêu nước,... Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau của dân tộc, nhục cái nhục quốc thể. Ông phơi trải tấm lòng mình với các tướng sĩ: ông thật ngứa mắt khi thấy “sứ giặc đi lại nghênh ngang”, thật ngứa tai khi chúng “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình", không sao ở yên được khi chúng giả hiệu Vân Nam Vương, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, vơ vét bạc vàng cốt để "vơ vét của kho có hạn" nhằm "thoả lòng tham không cùng". Ông tỏ thái độ khinh ghét cực độ với chúng, "vật hoá" chúng thành những con vật hạ đẳng, những con thú dữ đói khát, ông đã cho tướng sĩ của mình thấy rằng những tội ác tày trời đó cần phải bị trừng trị thích đáng, dẫu có phải phơi thân ngoài nội cỏ, gói xác trong da ngựa ông vẫn yên lòng. Sau đó, ông nhắc lại cách đối đãi của mình với họ, không có gì thì cho cái nấy, giữa trận mạc sống chết cùng nhau, khi nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Trần Quốc Tuấn phê phán những thái độ không tốt, phê phán những kẻ "nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn", những kẻ đã phản lại lòng tốt, sự quan tâm của ông. Ông đưa ra hai con đường cụ thể cho tất cả tướng sĩ lựa chọn. Một là có thể chúi đầu vào những thú vui tầm thường, thấp kém, để khi giặc đến thì chỉ còn biết quay giáo đầu hàng. Ông chỉ ra rằng khi ấy hạnh phúc của mỗi người sẽ bị huỷ hoại, phong tục, xã tắc nước Đại Việt sẽ bị dày xéo, mỗi người dân sẽ chịu cảnh nô lệ, chịu nỗi nhục nhã muôn đời không phai nhạt, thật đau xót biết bao! Ông đưa ra câu hỏi tu từ nghe có phần hết sức thân mật, phần khác lại đầy tính đe doạ: "Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?". Trái ngược hoàn toàn với viễn cảnh trên, nếu chịu học tập binh pháp, luyện tập võ nghệ sao cho "người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở của khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai" thì đời sống nhân dân sẽ ấm no, "bổng lộc đời đời hưởng thụ", "vợ con bách niên giai lão", "trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền",... Để đạt được như vậy thì các tướng sĩ phải học theo chuyên tập "Binh thư yếu lược", làm theo lời dạy bảo của Trần Quốc Tuấn, để giặc giã được dẹp yên, xã tắc được giữ vững. Chính nhờ một phần lớn bài hịch này, với những luận điểm đúng đắn, dẫn chứng lí lẽ sắc sảo mà ông đã kêu gọi được binh sĩ một lòng theo mình, xả thân vì dân vì nước, vì vậy mà đất nước lại được thái bình, nhân dân yên ổn, ấm no.

Hai vị lãnh đạo Trần Quốc Tuấn và Lí Công Uẩn dù một vị vua, một vị tướng nhưng cả hai đều là những nhà lãnh đạo hết sức tài ba, anh minh, họ có thể nắm giữ, thay đổi vận mệnh của cả một đất nước theo triều hướng hết sức tích cực, vì vậy mà họ cũng là những nhân vật được tôn trọng nhất, gắn liền với vận mệnh đất nước Đại Việt.
 
Last edited by a moderator:
L

lidungnguyen123

ghớm quá mấy cha ui

Đề bài: Dựa vào văn bản "Chiếu dời đô" và "Hịch tướng sĩ", hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với vận mệnh đất nước.

Bài làm

Lịch sử Việt Nam trong các triều đại phong kiến suy có, thịnh có, và có những trang sử vàng chói lọi của mình với đầy những chiến công lấp lánh chống giặc ngoại xâm cùng tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hướng quyết định đến vận mệnh đất nước. Tiêu biểu nhất ta phải kể đến là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và vua Lý Công Uẩn, những nhà lãnh đạo anh minh sáng suốt bậc nhất trong lịch sử nước nhà.

Một vị vua, một vị tướng, nhưng cả hai đều có tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng, trí tuệ hơn người và đặc biệt là luôn quan tâm đến việc chăm lo hạnh phúc lâu bền của nhân dân, mà trong đó thể hiện rõ nhất ở tác phẩm "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn và "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn.

"Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là sự tỏ bày ý định từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay) khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế. Sau đó, ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long. Đấy là năm Thuận Thiên thứ nhất – năm khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí – một triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi.
Xưa nay đều vậy, thủ đô là trung tâm về văn hoá, chính trị của một đất nước. Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc, do đó nó có ý nghĩa rất lớn. Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế. Mở đầu bài chiếu, ông viện dẫn sử sách Trung Quốc, nói về việc các vua đời xưa ở Trung Quốc cũng từng có các cuộc dời đô, nhờ đó mà "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Ngay sau đó, ông cũng viện dẫn sử sách nước nhà, lấy dẫn chứng rằng hai triều Đinh, Lê do không chịu chuyển dời mà khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". Ông thể hiện tâm trạng của mình: "rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi", đó là tấm lòng của một ông vua hết lòng lo lắng cho dân, cho nước. Bằng lí lẽ ngắn gọn, sắc sảo của mình, nhà vua đã khẳng định rằng, việc dời đô không phải là theo ý riêng của một con người, mà là "thuận theo mệnh trời, hợp với lòng dân", biểu hiện cho xu thế lịch sử. Nước Đại Việt ta lúc ấy đã là một quốc gia độc lập. Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông, nhân tâm con người phải thu về một mối. Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh. Muốn vậy, việc đầu tiên là phải tìm một nơi “trung tâm của trời đất”, một nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi”. Nhà vua đã rất tâm đắc và hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi nam bắc đông tây” lại tiện “nhìn sông dựa núi". Nơi đây không phải là miền Hoa Lư chật hẹp, núi non bao bọc lởm chởm mà là chốn Đại La “địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng”. Như vậy, đây là mảnh đất lí tưởng nhất, ở nơi đây, “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Quả thực Lý Công Uẩn rất quan tâm tới nhân dân. Tìm chốn lập đô cũng vì muốn nhân dân được ấm no hạnh phúc. Theo như ông, có một kinh đô như vậy, nước Đại Việt sẽ muôn đời bền vững. Sự chuyển dời ấy cũng tạo ra một bước ngoặt rất lớn đối với vận mệnh đất nước. Nó đánh dấu một bước phát triển mới của dân tộc Việt Nam: chúng ta không còn phải sống phòng thủ, không còn phải dựa vào thế hiểm trở như ở Hoa Lư để đối phó với quân thù. Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc. Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời, là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời vậy!

Với trí tuệ anh minh, lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định dời đô một cách hết sức thuyết phục. Ông biết rằng chỉ dùng sử sách thì khó có thể thuyết phục quan thần, vậy nên trong phần sau của văn bản, ta bắt gặp một giọng nói đầy nhân từ, tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực. Ông không bắt các quan và nhân dân phải dời đô theo ý mình mà thậm chí còn hỏi han, nghe ngóng tình hình, quan tâm, tiếp thu cả ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói rằng Lí Công Uẩn là một vị vua hết sức anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng, đặt hạnh phúc lâu bền của nhân dân làm mục đích cho hành động, việc làm của mình nhằm xây dựng được triều đại hưng thịnh, có vai trò quan trọng trong lịch sử.

Theo sau triều đại vẻ vang nhà Lí là đến nhà Trần, với những trang sử vàng phủ đầy các chiến công giữ nước lấp lánh. Ba đời vua Trần, trăm vạn binh tướng, mười triệu dân Đại Việt kí thác vận mệnh vào những nhà lãnh đạo của mình. Trong đó quan trọng nhất phải nói đến là Đức Thánh Trần - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ông đã thể hiện mình cũng rất quan tâm đến hạnh phúc của muôn dân. Nhưng lại không giống như vua Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn là một vị tướng, vậy nên sự quan tâm của ông được thể hiện ở một góc độ khác, ta sẽ tìm hiểu điều này qua áng văn "Hịch tướng sĩ" bất hủ của ông.

Mở đầu bài hịch, ông nêu gương các trung thần nghĩa sĩ thời xưa: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh,... Ông đã khẳng định rằng các trung thần nghĩa sĩ đời nào cũng có, và đồng thời ám chỉ rằng nếu như Trung Quốc có thì Đại Việt cũng phải có. Sau đó, ông tiếp tục viện sử thời Tống, Nguyên gần đó với ý định khẳng định điều mình vừa nói là sự thực với những dẫn chứng gần gũi hơn. Đó là một hành động hết sức khôn ngoan, sáng suốt khi đánh vào lòng tự tôn của binh sĩ, bởi nó sẽ làm khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, lòng yêu nước,... Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau của dân tộc, nhục cái nhục quốc thể. Ông phơi trải tấm lòng mình với các tướng sĩ: ông thật ngứa mắt khi thấy “sứ giặc đi lại nghênh ngang”, thật ngứa tai khi chúng “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình", không sao ở yên được khi chúng giả hiệu Vân Nam Vương, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, vơ vét bạc vàng cốt để "vơ vét của kho có hạn" nhằm "thoả lòng tham không cùng". Ông tỏ thái độ khinh ghét cực độ với chúng, "vật hoá" chúng thành những con vật hạ đẳng, những con thú dữ đói khát, ông đã cho tướng sĩ của mình thấy rằng những tội ác tày trời đó cần phải bị trừng trị thích đáng, dẫu có phải phơi thân ngoài nội cỏ, gói xác trong da ngựa ông vẫn yên lòng. Sau đó, ông nhắc lại cách đối đãi của mình với họ, không có gì thì cho cái nấy, giữa trận mạc sống chết cùng nhau, khi nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Trần Quốc Tuấn phê phán những thái độ không tốt, phê phán những kẻ "nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn", những kẻ đã phản lại lòng tốt, sự quan tâm của ông. Ông đưa ra hai con đường cụ thể cho tất cả tướng sĩ lựa chọn. Một là có thể chúi đầu vào những thú vui tầm thường, thấp kém, để khi giặc đến thì chỉ còn biết quay giáo đầu hàng. Ông chỉ ra rằng khi ấy hạnh phúc của mỗi người sẽ bị huỷ hoại, phong tục, xã tắc nước Đại Việt sẽ bị dày xéo, mỗi người dân sẽ chịu cảnh nô lệ, chịu nỗi nhục nhã muôn đời không phai nhạt, thật đau xót biết bao! Ông đưa ra câu hỏi tu từ nghe có phần hết sức thân mật, phần khác lại đầy tính đe doạ: "Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?". Trái ngược hoàn toàn với viễn cảnh trên, nếu chịu học tập binh pháp, luyện tập võ nghệ sao cho "người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở của khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai" thì đời sống nhân dân sẽ ấm no, "bổng lộc đời đời hưởng thụ", "vợ con bách niên giai lão", "trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền",... Để đạt được như vậy thì các tướng sĩ phải học theo chuyên tập "Binh thư yếu lược", làm theo lời dạy bảo của Trần Quốc Tuấn, để giặc giã được dẹp yên, xã tắc được giữ vững. Chính nhờ một phần lớn bài hịch này, với những luận điểm đúng đắn, dẫn chứng lí lẽ sắc sảo mà ông đã kêu gọi được binh sĩ một lòng theo mình, xả thân vì dân vì nước, vì vậy mà đất nước lại được thái bình, nhân dân yên ổn, ấm no.

Hai vị lãnh đạo Trần Quốc Tuấn và Lí Công Uẩn dù một vị vua, một vị tướng nhưng cả hai đều là những nhà lãnh đạo hết sức tài ba, anh minh, họ có thể nắm giữ, thay đổi vận mệnh của cả một đất nước theo triều hướng hết sức tích cực, vì vậy mà họ cũng là những nhân vật được tôn trọng nhất, gắn liền với vận mệnh đất nước Đại Việt.
:-SS@};-:)|:D:D:D:D:D:D@-)@-)@-)o=>|-):rolleyes::rolleyes::rolleyes::rolleyes:%%-b-(%%-|-)
 
N

nguyenhien22011969@gmail.com

Đề 1 : Dựa vào văn bản "Chiếu dời đô" và "Hịch tướng sĩ" hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với vận mệnh của đất nước.
1) Mở bài:
_ Có thễ nói dân tộc VN đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đó là 1 truyền thống rất đáng tự hào. Đất nước sống đời thái bình, no ấm chính là nhờ tài đức của các vị vua, các vị tướng sĩ văn võ song toàn như Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ), Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo Vương). Họ là những người lãnh đạo anh minh suốt đời vì vận mệnh của đất nước. Dựa vào văn bản "Chiếu dời đô" Lý Công Uẫn và văn bản "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều đó.

2) Thân bài:
_ Như chúng ta đã biết, Lý Công Uẩn vốn là người thông minh nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Vì thế, khi Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên.
_ Lý Công Uẫn lên ngôi đã lập tức quyết định dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La, bởi nhà vua hiễu rõ Đại La chính là vùng đất mà nhân dân sẽ sống no ấm, đất nước được hưng thịnh đời đời. Lý Công Uẩn quyết định như thế không phải theo ý riêng mình mà chính là lo cho vận nước, hợp với lòng dân.
_ Người viết "Chiếu dời đô" bày tỏ mục đích dời đô là: "vân mệnh trời", "theo ý dân", "thấy thuận thiên thì thay đổi", dời đến nơi "trung tâm trời đất", tiện hướng "nhìn sông dựa núi",… "nơi đây là thánh địa". Đọc văn bản "chiếu dời đô" ta cảm nhận Lý Công Uẩn không chỉ là 1 vị vua có tài mà còn có đức, ông xứng đáng là vị vua anh minh bậc tiên đế muôn đời. Quyết định dời đô của ông là rất sáng suốt bởi vì kinh đô Đại La đã vững mạnh suốt 200 năm, có nghĩa là nhân dân thái bình, no ấm trong suốt thời gian đó (kinh đô Đại La_Thăng Long_chính là thủ đô Hà Nội ngày nay, linh hồn của VN)
_Thời kì nhân dân Đại Việt phải đương đầu với quân Nguyên_Mông hung hãn, vị nguyên soái Trần Quốc Tuấn tức Hưng Đạo Vương đã 3 lần cầm quân đánh bại quân xâm lược. Ông xứng đáng là 1 vị anh hùng của dân tộc.
_Trước năm 1285, Trần Quốc Tuấn đã viết bài "Hịch tướng sĩ" với mục đích kêu gọi tướng sĩ học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ đễ chuẩn bị đánh quân xâm lược. Bài Hịch có sức thuyết phục rất cao bởi lập luận sắc bén, có tình có lý.
_ Trong bài Hịch Trần Quốc Tuấn sáng suốt nêu gương các trung thần nghĩa sĩ của Trung Quốc đễ đánh vào lòng tự tôn của các tướng sĩ dưới quyền. Ông nhắc lại cách đối xử thân tình của mình đến với họ, chỉ cho họ thấy tội ác của giặc, bày tỏ tấm lòng của mình trước vận mệnh của đất nước.
_ Trần Quốc Tuấn đã phản ánh phê phán sự bàng quan vô trách nhiệm của các tướng sĩ. Vạch ra nguy cơ nước mất nhà tan, rồi lật ngược vấn đề: Nếu tướng sĩ lo học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ thì mọi người được sử sách lưu danh.
_ Với cách lập luận như thế, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy, khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc của tất cả mọi người.
_ Trần Quốc Tuấn vốn là con nhà võ nhưng thấu đáo sự học làm người, nắm rõ "tam cương, ngũ thường". Ông xứng đáng là 1 tấm gương để chiến sĩ noi theo. Trong kho tàng văn học nước nhà "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn xứng đáng là 1 "An thiên cỗ hùng văn", "tiếng kèn xung trận hào hùng", mãi mãi nhân dân thời Trần (thế kỉ 13) và mọi đời sau sẽ không bao giờ quên công đức của ông.
3) Kết bài:
_ Nói tóm lại, lịch sử đất nước Việt Nam có những trang vàng chói lọi là nhờ vào những vị vua, vị tướng anh minh như Lý Công Uẫn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… Họ là tấm gương sáng ngời đễ đời sau soi vào đó mà học tập. Chúng ta tưởng nhớ đến Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân giành độc lập ngày hôm nay. Chúng ta chắc chắn Bác đã noi gương những người đi trước. Sống xứng đáng với sự hi sinh của họ. Bác đã từng nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Và người cũng đã ân cần dạy tuổi trẻ "có tài mà không có đức thì là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó".
 
Top Bottom