[Văn 8] Phân tích nv lão hạc

L

leo345

W

whitetigerbaekho

Tác phẩm viết 1943 - khi ấy Nam Cao cũng đang phải chịu cảnh sống cùng cực của người dân dới chế độ PK, ông hiểu hơn ai hết những khốn cùng, những cay đắng của người nông dân. Đọc Lão Hạc, ta thấy đc bức tranh thu nhỏ của XHVN trước CMT8 với sự bần cùng hoá của bao kiếp người. Bằng ngòi bút hiện thực, bằng tài năng miêu tả diễn biến tâm trạng, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Lão Hạc. * Lão Hạc là người nông dân lao động nghèo khổ, bất hạnh: - Lão sống trong tuổi già cô đơn đầy lo nghĩ. Cả đời làm lụng vvất vả, vợ chồng lão cũng tậu đc mảnh vườn, nhưng mảnh vườn ấy cũng không giúp lão lo đc h.phúc cho con. Đứa con trai duy nhất của lão đã có người yêu- chúng rất mến nhau, nhưng tiền thách cưới quá nặng, mất " cứng đến 200 bạc. Lão không lo đc". Tục lệ cưới xin lạc hậu, lão không
làm tròn bổn phận của người cha. Nỗi đau ấy luôn dày vò lão Phẫn chí, anh con trai bỏ đi phu đồn điền cao su để lão sống một mình. Lão xót xa cay đắng khi nhận ra đưa con cứ tuột đần khỏi tay mình" hình của nó người ta chụp, ảnh của nó người ta giữ., nó là người của người ta rồi chứ đâu còn là con của tôi nữa". Và từ đấy lão sống một mình, bầu bạn với lão
chỉ có con vàng. Vợ chết, con đi xa, lão cô đơn làm sao. Đến ông giáo cũng cảm nhậnđc nỗi cô đơn của lão "già rồi mà ngày cũng như đêm, suốt ngày chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn". ấy vậy mà lão cũng phải bán con Vàng, bán nguồn an ủi động viên, bán người bạn. Giá như ta biết quá trình tính toán, cân nhắc từng bữa ăn của chó, của người, biết đc bao lần lão Hạc đã sang kể cho ông giáo nghe việc mình bán con Vàng, ta mới thấy đc lão đã day dứt, trăn trở, khổ đau thế nào - Cuộc sống của lão càng ngày càng túng thiếu chật vật. Già rồi, đến tuổi vui thú điền viên, đc con cháu phụng dưỡng mà lão vẫn phải đi làm thuê làm mướn để kiếm sống. Nhưng ốm đau không chừa lão. Lão đã ốm một trận thừa chết thiếu sống đến hơn tháng trời. Làng lại mất vé sợi, người khoẻ mạnh tranh hết việc, ai thuê người già lão, yếu đau. Lão thất nghiệp, lão sống bằng cái gì đây. không thể
tiêu vào tiền của con, lão" chế tạo đc món gì, ăn món ấy", khi bữa trai bữa ốc, khi củ khoai củ dáy. Bữa ăn súi só đắp đổi qua ngày. Cuộc sống đã khổ ngày càng khổ hơn, bế tắc hơn. - Lão sống khốn khổ như vậy mà có người vẫn không hiểu lão. Vợ ông giáo không phải là người xấu. C.sống cũng khốn khó, nhưng khi thấy chồng giúp lão thì chị cũng khó chịu" Cho lão chết. Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ" Trong con mắt của chị, lão là người keo kiệt bủn xỉn, keo kiệt bủn xỉn với ngay chính bản thân mình, keo kiệt đến gàn dở. Còn Binh Tư - kẻ sống bằng nghề trộm cắp cũng coi thường lão" Lão làm bộ đấy. Lão tẩm mgẩm thế thôi chứ ghê ra phết" Binh Tư như tìm đc một đồng minh. Trong con mắt của Binh Tư, lão chỉ là kẻ sống bất lương núp dưới bộ mặt đạo đức giả. Mỗi người một cách nhìn khác nhau, nhưng rõ ràng lão trở nên xấu xa, gàn dở, tội lỗi. - Sống đã khổ, đến chết cái khổ cũng không buông tha lão. Ta hãy cùng Nam Cao bước sang nhà lão để cháng kiến những giây phút cuối cùng của đời lão" lão đang vật vã…đầu tóc rũ rượi…hai mắt long sòng sọc…bọt mép sùi ra…"TG tả thực, tả tỉ mỉ từng cử chỉ, hành động của lão trước khi từ giã cõi đời. Cái chết của lão sao mà đau đớn, dữ dội, bất ngờ và bí ẩn đến thế. Xót xa thay, thương cảm thay cho một kiếp người sống trong túng đói, dằn vặt, cô đơn, chết trong đau đớn vật vã. * Sống trong khổ đau bất hạnh, nhưng Lão Hạc vẫn sáng lên vẻ đẹp của nhân cách. - Lão thương yêu con trai. Lão luôn nhớ đến con. Đang nói chuyện với ông giáo về việc bán con Vàng,lão cũng nhắc đến con" thằng bé nhà tôi dễ đến hơn một năm không có thư từ gì đấy ông giáo a," nói chuyện với con vàng, lão cũng nhắc đến con. Có lẽ hình ảnh đứa con lúc nào cũng hiện lên trong nối nhớ. Lão trông mong từng ngày con trai trở về. Nhớ con bao nhiêu, lão chắt chiu dành dụm cho con bấy nhiêu. Có mảnh vườn vợ chồng lão mua đc, lão coi đó là của con, tiền thu đc từ mảnh vườn, lão tích cóp để dành cho con để phụ với con khi con cưới vợ, hay thêm vào chút vón để làm ăn. Có thể nói mỗi đồng tiền bòn đc từ mảnh vườn thấm đượm mồ hôi, nước mắt và tình thương yêu của người cha với con. Đến khi ốm đau
không làm đc, phải tiêu vào tiền của con, lão dằn vặt" bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu". Vì vậy, dù yêu quý con vàng, lão cũng phải bán đi. Lão chấp nhận cuộc sống đắp đổi qua ngày chứ quyết không phạm vào tiền của con. Khi không vừa tự kiếm sống, vừa bòn vườn cho con, laoz gửi ông giáo mảnh vườn để " con lão về thì nó nhận vườn làm". Lão hiểu với người nông dân, tấc đất quan trọng ntn. Lão cũng biết mảnh vườn của con lão dang bị kẻ có thế lực dòm ngó. Và thế là lão vờ nhượng lại cho ông giáo để giữ mảnh vườn cho con. Chao ôi, lão sống đầy trách nhiệm và tình thưng với con. - Thương con trai, lão cũng thương con Vàng. Con chó vốn là loài vật trung thành với chủ, những cũng thường bị coi thường, xem rẻ. Thế nhưng lão Hạc lại rất quý con Vàng. Lão gọi nó là " cậu Vàng", cho nó ăn trong bát như chó của nhà giàu. Lão bắt rận, tắm rửa, ăn gì lão cũng gắp cho nó. Lão âu yếm trò chuyện, khi dấu dí, khi sừng sộ nạt nộ, nhưng rõ ràng là lão coi nó như một đứa cháu. Con Vàng không chỉ là con là cháu mà còn là người bạn để lão vợi bớt nỗi buồn, cô đơn trống trải. Hơn thế, con Vàng còn là kỉ vật của anh con trai. Lão nuôi con Vàng với nguồn hi vọng mai kia con trở về làm cỗ cưới vợ. Chính vì thế mà khi phải bán con Vàng,
lão đã đau đớn, kể chuyện cho ông giáo nghe, lão không kìm đc, bật "khóc hu hu" như con nít. - Lão là người nông dân sống lương thiện. Cả đời lão sống bằng đôi bàn tay lao động của mình. Khi còn khoẻ, lão làm thuê cuốc mướn. Khi ốm đau, kông làm thuê đc nữa thì lão kiếm con trai con ốc, củ khoai củ ráy. Khi không còn tự kiếm sống đc nữa thì lão tự kết liễu đời mình bằng bả chó chứ không đi ăn trộm, ăn cắp như Binh Tư. Lão dã chọn cái chết trong còn hơn sống đục. Quen sống lượng thiện, lão khổ đau dằn vặt khi nghĩ rằng mình đánh lừa con chó:"thì ra tôi gìa bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa con chó". Ánh mắt con Vàng xoáy sâu vào lão nỗi oán trách giận hờn khiến lão thấy ân hận, xót xa. Xử sự không phải với con chó lão dằn vặt, day dứt đến vậy thì hẳn lão không thể làm điều ác với ai bao giờ. Lão sống hiền lành, chân chất, nhân hậu quá, đáng trân trọng biết bao. - Lão còn là người giàu lòng tự trọng. Sống trong túng thiếu nhưng lão không phiền lụy đến ai. Cảm thông cho cuộc sống tạm bợ củ khoai củ ráy qua ngày của lão, ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ thì " lão từ chối tất cả. Từ chối đến mức gần như là hách dịch". Sự giúp đỡ của ông giáo chắc cũng chẳng đáng là bao, nhưng trong cảnh khốn cùng"một miếng khi đói, bằng một gói khi no" hẳn là rất đáng quý. Vậy mà lão lại từ chối. Phải chăng lão hiểu rằng nhà ông giáo cũng nghèo, hiểu rằng bà giáo không thoải mái gì. Ông giáo tốt bụng thật, nhưng lão không thể lợi dụng lòng tốt của ngơừi khác, không thể để phiền luỵ đến người khác. Lão đã từng nói với ông giáo "Để phiền cho hàng xóm, chết không nắm mắt đc". Ngay đến cả đám ma của mình, lão cũng gửi tiền lại hờ bà con làm ma cho. Một biểu hiện thật cao đẹp mà cũng thật chua xót của lòng tự trọng là lão thà chết để giữ trọn đạo làm cha, nhân cách làm người. không thể đi ăn trộm như Binh Tư, không thể phạm vào tiền của con, lão dã âm thần "dọn cho mình con đường sạch sẽ nhất để đi đến nhà mồ" (Văn Giá). Một nỗi nghẹn ngào trào dâng khi ta hiểu rằng: con người cô đơn bất hạnh ấy đã sống bằng một tình yêu thương sâu sắc, bằng nhân cách cao thượng và chết đi trong ý thức tự trọng vô cùng lớn lao. Cái chết của lão là câu trả lời cho ai đó chỉ thấy vẻ bề ngoài "gàn dở bần tiện" hay chỉ làm bộ đạo đức giả. Lão Hạc - người nông dân bình thường, nhỏ nhoi, nghèo đói, nhưng từ lão lại toả ra ánh sáng rạng ngời của nhân cách Truyện xây dựng theo cốt truyện tâm lí, đi sâu vào miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Xuyên suốt truyện, ta thấy từng suy tính, cân nhắc, lựa chọn của lão Hạc. Nào lão tính toán thời gian con đi, nào tính giá tiền từng bữa ăn của con Vàng, nào tính toán việc bán con Vàng, thậm chí " liệu đâu vào đấy
cả" cho cái chết của mình Qua nhân vật Lão Hạc, nhà văn phơi bày hiện thực về số phận của người nông dân trong XHPK đồng thời lên án gay gắt cái XH bất lương, vô nhân đạo ấy. Từ bi kịch về cái nghèo, về nhân phâme cảu Lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tiếng nói đồng cảm, trân trọng và nâng nui vẻ đẹp ở lão Hạc, giúp người đọc có niềm tin yêu vào con người. Truyện thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Nguồn: Lính Chì
 
T

tayhd20022001

"Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.

Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.

Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão.

Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”.

Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này.

Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”.

Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối.

Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.

Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.

Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”.Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.

Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người nông dân... “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi ... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”.

Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. Ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương.

Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.

Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình.

Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu ...

Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc...

Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.

ST
 
Last edited by a moderator:
L

leo345

Nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống , thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình , giúp con người thể nghiệm ý vị của cuộc sống và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh . Nhưng khác với các nhà khoa học , nghệ sĩ không diễn trực tiếp ý nghĩa và tình cảm bằng khái niệm trừu tượng , bằng định lí , công thức mà bằng hình tượng , nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc , những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận , về tình đời tình người qua một chất liệu cụ thể . Trong licchj sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 xuất hiện hình tượng Lão Hạc thể hiện sâu sắc tài năng của NC trong nghệ thuật kể chuyện , nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm của nhân vật , hay nói cách khác là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật có khả năng lay động sâu xa , đánh thức mạnh mẽ sự đồng cảm của người đọc . Viết như thế là do sự lão luyện của tay nghề hay là do tư tưởng nhân đạo sâu sacws của người cầm bút ? Có lẽ là do cả hai .

NC ( 1915-1951) là một trong những nhà văn VN tiêu biểu nhất thế kỉ XX . Ông sinh ra tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân ( Nay thuộc Hà Nam ) . Ông xuất thân trong một gia đình công giáo bậc trung. Lão Hạc được viết năm 1943 là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực , nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội VN trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám . Nam Cao là người có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học VN giai đoạn 1930-1945 một nhà văn tài năng , một người cầm bút có trách nhiệm và đầy tâm huyết với nghề nghiệp của mình . Một trong số những yếu tố dẫn đến tài năng đặc sắc của NC chính là khả năng hư cấu và điển hình hóa nhân vật theo cách riêng của ông hay nói cách khác là khả năng xây dựng hình tượng nghệ thuật rất đỗi tài tình .

Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật . La cái....

Hầu hết những nhân vật nổi tiếng do NC sáng tạo đều có một phần thực ngoài đời thậm chí đều là người làng Đại Hoàng , phủ LÍ Nhân . Hình tượng nhân vật Lão Hạc trong truyện ngăn LH , nhân vật chính cùng tên vốn được xây dựng trên nguyên mẫu một ông già tên là Trùm San. Đây là một người vốn theo đạo Thiên chúa , chức " trùm " của ông chỉ là do mua danh chứ thực ra ông rất nghèo . Hoàn cảnh đời tư của trùm San cuãng éo le , khắc nghiệt đúng như NC đã miêu tả hoàn cảnh của Lão Hạc . Chỉ riêng chi tiết tự vẫn bằng bả chó không phải là của Trùm San mà là của một ông già khác tên là trùm Luông - ông này cũng nghèo xơ nghèo xác giống như Trùm San vậy . Trong cuộc đời cầm bút Nc luôn chỉ suy nghĩ về vấn đề sống và viết . Nhắc đến NC là ta nhắc đến chủ nghĩa hiện thực trong văn học Vn giai đoạn 1930-45 . Tác phẩm Trăng Sáng có thể coi như tuyên ngôn nghệ thuật của ông " Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối , không nên là ánh trăng lừa dối" . Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống , nhìn thẳng và sự thật tàn nhẫn , phải nói lên nỗi khốn khổ cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng .

Thông thường khi xây dựng nhân vật , khi tạo tình huống để nhân vật vận động các nhà văn phần lớn đều dựa vào nhiều điển hình xã hội để lựa chọn , khái quát , tái tạo theo một mẫu lí tưởng nhất định . Các nhân vật văn học được hư cấu trên cơ sở lựa chọn , tổng hòa từ nhiều mẫu người trong xã hội chứ không phải dựa vào một con người cụ thể nào . Nếu so sánh với cách xây dựng nhân vật của Nam Cao ta có thể dễ dàng nhận thấy một thực tế có vẻ ngược chiều . Nhiều nhân vật của NC được xây dựng tư một nguyên mâũ cụ thể . Đôi khi người đọc có cảm giác những nguyên mẫu ấy bước thẳng từ đời thực vào những trang viết của ông.

Đề cao con người tư tưởng , đặc biệt chú ý đến hoạt động bên trong của con người , coi đó là nguyên nhân của những hoạy động bên ngoài . Đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao . Quan tâm đến đời sống tinh thần của con người , luôn hứng thú khám phá con người trong con người . Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý , là đói tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao .

Lão Hạc của NC ra mắt bạn đọc năm 43 . Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe dọa của nạn đói và cuộc sống tù túng đã để lại xú động sâu xa trong lòng độc giả . Đặc biệt tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng của nhân vật chính giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương , một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên một cuộc đời lương thiện . LH là sản phẩm của một tấm lòng nhân đạo cao cả . Nó là tình yêu thương , là sự ngợi ca , trân trọng người lao động của NC . Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh người nông dân VN với những phẩm chất đáng quý đáng yêu : chăm chỉ , cần cù, giàu tình yêu thương và đức hi sinh cao cả . Lão Hạc một người nông dân suốt đời sống trong cảnh nghèo và cái đói . Lão dành cả đời để nuôi con , lo lắng cho con mà chưa bao giờ nghĩ đến mình . Lão thương con vô bờ bến : thương con không lấy được vợ vì nhà ta nghèo quá , thương con phải bỏ làng , bỏ xứ đi xa để ôm mộng làm giàu giữa chốn hang hùm miệng sói . Lão đã đau khổ biết nhường nào khi phải bán cậu Vàng - kỉ vật duy nhất của đứa con trai ...

Cuộc sống của người nông dân ngột ngạt đến không thở được , nhìn vào hiện thực ấy ta thấy thật đau đớn , xót xa . Lão Hạc chết , cái chết đó là cái chết cùng đường tuy bi thương nhưng sáng bừng phẩm chất cao đẹp của người nông dân . Nó khiến ta vừa cảm thương lại vừa nể phục một nhân cách giàu tự trọng ... Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con trai ra khỏi vòng tay của lão , cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi người bạn của lão là cậu Vàng ...

Vẻ đẹp con người trong truyện ngắn LH của Nam Cao được xây dựng trên cảnh nghèo đói của người nông dân trong xã hội cũ . Nhưng đó là vẻ đẹp của con người VN nên dẫu thời " đói nghèo trong rơm rạ , văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi " này đã qua đii lâu rồi , vẻ đẹp ấy vẫn lung linh ánh sáng và đầy sức lay động .

Hình tượng nhân vật Lão Hạc là hình tượng phi vật chất . Sử dụng chất liệu ngôn từ mà nhà văn đem lại cho ta hình ảnh ảo của nhân vật Lão Hạc mà ngôn ngữ văn chương gợi lên trong óc tưởng tượng của chúng ta . Có lẽ chính bởi vì nó không cụ thể , cho nên hình ảnh ảo mới có thể hài hòa được với cái ngôn ngữ khái niệm rất trừu tượng nhưng lại có khả năng diễn đạt nội tâm nhân vật một cách sâu sắc . Có thể nói tấn bi kịch của lão hạc đến bây giờ vẫn còn khả năng đối thoại về tình thương , nhân cách , lẽ sống với chúng ta nhiều lắm . Lão Hạc thể hiện sâu sắc tài năng của nhà văn đặc biệt là trong nghệ thuật kể chuyện , nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm nhân vật , có khả năng lay động sâu xa , đánh thức mạnh mẽ sự đồng cảm của người đọc

nguồn :zing blog
 
L

lalinhtrang

gửi bạn

Nhân vật Lão Hạc:

- Là nhân vật điển hình trong tp cùng tên "lão Hạc" - Nam Cao.
- Là nhân vật đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ trước cách mạng tháng 8.
- Là 1 nông dân nghèo nên ông không có tiền để cưới vợ cho con => đứa con của ông đã bỏ nhà đi đồn điền cao su.
--> Ông rất đau khổ về việc đó, những nổi đau sau này của ông đều dường như liên quan đến cái nguyên nhân đau khổ này của ông.
- KHi con ông bỏ nahf ra đi, ông đi làm việc để kiếm tiền, mong chờ đến ngày con trai mình sẽ quay trở về.
- Người bạn duy nhất bây giờ làm cho ông vui là con chó Vàng - nó ko chỉ là 1 con thú trong nhà, ko chỉ là điều làm ông vơi bớt nỗi buồn khi thương nhớ con, mà chó Vàng còn là người bạn mà ông rất thương.
- Nhưng vì cảnh sống quá khó khăn, chật vật mà ông đã bán đi cái niềm vui suy nhất của mình ấy - con chó Vàng.

** Những tính cách điển hình, làm nên vẻ đẹp nhân cách của Lão Hạc.
- Là 1 người nông dân nghèo, lam lũ và rất thương yêu con mình.
- Ông đành lòng bán đi con chó Vàng, dành dụm tiền bạc để gửi nhờ ông giáo giữ giúp, chờ dịp trao lại cho đứa con trai.
- Lòng yêu thương con sâu sắc còn thể hiện ở: ông dù có nghèo khó cách mấy, nhưng vẫn ko chịu bán đi mảnh vườn mà ông đã keien quyết giữ cho con trai.
- Rồi một con người nhân hậu hiện lên khi ông vuốt ve con chó Vàng, tâm sự với nó trước khi bán nó đi. Ông để ý ánh mắt nó nhìn ông => ông đã đau lòng biết bao.
- Rồi việc lão tìm đến với cái chết: như một sự giải thoát cho chính bản thân khỏi cái xã hội cùng cực này, ông ko muốn mình sống để mà tiêu mất số tiền dành dụm được cho đứa con trai, rồi ông chết một cách lặng lẽ mà ko ai biết nguyên cớ ra sao (trừ Binh Tư và ông giáo) đã cho thấy là ông ko muốn cái chết dữ dội của mình ảnh hưởng đến hàng xóm láng giềng => tâm lòng cao cả của 1 người nông dân bé nhỏ trong xã hội.
 
Top Bottom