{VĂN 8}một số câu hỏi khó

N

nhoc_luoi_0311

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Các bạn ơi,giúp mình trả lời mấy câu hỏi này với:
1)(Nhớ rừng) Nhà phê bình văn học Hòai Thanh có nhận xét về thơ THế Lữ:"Đọc đôi bài, nhất là bài nhớ rừng,ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy,bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường.Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được(Thi nhân Việt Nam,Sđd).Em hiểu như thế nào về ý kiến đó?Qua bài thơ,hãy chứng minh nhận định trên.
2)(Tức cảnh Pác Bó)Có thể thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích,thoải mái khi sống giữa thiên nhiên.Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi"thú lâm tuyền"(niềm vui thú sống với rừng,suối) trong bài Côn Sơn Ca.Hãy cho biết "thú lâm tuyền" ở Nguyễn Trãi và ở Bác Hồ có gì giống và khác nhau.
3)Em hiểu gì về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật.
 
T

thuyhoa17

Câu 1: bài dưới em chú ý các từ in đậm nhé. :)

cún có trang này ko biết có giúp đc bạn hok: http://baigiang.violet.vn/present/show/entry_id/458132
bạn đọc bài này coi nhaz:

Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, không chấp nhận cái tầm thường...

Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải chăng chính những cảm xúc hợp lý vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đã nhận định như vậy...

Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế lữ cũng đã tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong thơ hoá thân thành muôn hình vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những "gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.

Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của chủ nghĩa lãng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị hãm mình trong "cũi sắt".

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thơ cũ giam mình trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất mới lạ của Thơ Mới?

Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đã ví thơ cũ như "Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm xúc... thì giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nhìn thấy hồn thơ cũ vẫn còn âm vang trong Thơ Mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của chủ nghĩa lãng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của "giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dõng dạc, cuộn, quắc...":


Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.


"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi" phải chăng là câu thơ làm cho mãnh lực phi thường của chúa sơn lâm trước muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có gì để đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô đơn? Trong bài thơ "Hi Mã Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều đó:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(.....)
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

Phải chăng hình ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam mình? Khuôn khổ thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ còn trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó gò bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho Thơ Mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài dòng, khuynh hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất địng không thể là thế mạnh của Thơ Mới, mà nó đã vấp phải trong giai đoạn sơ khai.

Phải chăng ngoài sự thắng lợi của Thơ Mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn còn rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đã mở ra triển vọng cho Thơ Mới về cả hai cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc bao tinh túy của cái hôm qua?

Nó ko làm rõ vấn đề nhiều lắm, nhưng cũng mong là giúp đc em ^^

Trong "Thi nhân Việt Nam" có đoạn liên quan đến câu ấy là:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Đọc những câu ấy ko ai còn có quyền bĩu môi trc cuộc cách mệnh về thi ca đương nổi dậy. Cho đến những bài thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát của Thế Lữ cũng khác hẳn xưa. Thế Lữ làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm ko di dịch. chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là "Nhớ rừng", ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy , bị dằn vặt bởi 1 sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh ko thể cưỡng được.

 
H

hotteenxjnhxjnh

C2:
*Giống nhau:
- Đều thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm vui sống giữa núi rừng
- Thể hiện tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ, 1 nét đẹp của người Việt có từ xa xưa
*Khác nhau:
- Nguyễn Trãi "lánh đục tìm trong", rời bỏ cuộc sống ở triều đình đầy bon chen, thủ đoạn, suy thoái để về ở ẩn, sống với thiên nhiên... Tuy thanh cao, khí tiết nhưng có phần tiêu cực
- Bác Hồ tìm về với thiên nhiên nhằm tránh kẻ thù, hoạt động Cách mạng, tìm đường cứu nước. Bác sống hòa hợp với thiên nhiên, có dáng vẻ của ẩn sĩ nhưng thực chất là đang âm thầm chiến đấu...

Đey ckỉ là nhữg ý chíh, pạn tự khai triển ra muh viết
 
D

donquanhao_ub

3.
Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt.
Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành.
Thơ tứ tuyệt có 2 thể là luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng.
Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như "công thức" căn bản mà người làm thơ phải tuân theo.

TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối)

Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:

BẢNG LUẬT:

T - T - B - B - T - T - B (Vần)
B - B - T - T - T - B - B (Vần)
B - B - T - T - B - B - T
T - T - B - B - T - T - B (Vần)

VD

Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu
Đôi mình cách trở bởi vì đâu
Canh tàn khắc lụn hồn tê tái
Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu

Hoàng Thứ Lang
 
Last edited by a moderator:
L

luccongchua

bạn ơi giúp mình bài 2 đi mà mùng 10 tết đi học là phải nộp rồi có gì cho mình cảm ơn trước .
 
H

hhtthanyeu

Giống nhau: Cả hai đều thích hòa hợp với thiên nhiên, đều vui thú với rừng núi, khe suối, đều tìm thấy giữa chốn lâm tuyền một cuộc sống thanh cao hợp với cách sống của mình .
Khác nhau:“Thú lâm tuyền” ở Nguyễn Trãi mang tư tưởng của một ẩn sĩ, muốn tìm về với suối rừng để ẩn dật, để quên đi nỗi vinh nhục ở đời, để lánh xa cõi đời bất công và để ngân thơ nhàn
Còn “thú lâm tuyền” ở Hồ Chí Minh lại mang tư tưởng của một chiến sĩ cách mạng: Bác Hồ nhận thức được sâu sắc vẻ đẹp của cuộc đời cách mạng cùng với “thú lâm tuyền” giúp ta cảm nhận được: Với Bác làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên nhiên là 1 niềm vui lớn
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom