[Văn 8] Đề văn thuyết minh , thi học kì I.

P

p3du0ng.pt

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Tình hình là sắp Thi HK1 mà văn cô cho đề mình tìm mãi chẳng cóa bài nào tham khảo... Ai biết giúp mình vs nhé.... cảm ơn rắc rắc nhìu.....:D:D
Đề 1: Thuyết minh về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. :|
Đề 2: Thuyết minh về hoa mai ngày Tết. :|

em chú ý cách đặt tên tiêu đề nhé.
Đã sửa!
 
Last edited by a moderator:
V

voiconrachan

Mình có nè nhớ thanks nha
đề2:Nếu đào là hoa tiêu biểu cho Tết trên đất Bắc thì mai tượng trưng cho những ngày Xuân ở miền Nam. Giàu hay nghèo, mọi gia đình đều có một cành mai trong những ngày Tết, nhiều nhà ngoài cội mai già trước sân, bàn thờ ông bà, còn chưng mai trên bàn thờ Phật, phòng khách và ngay cả trên phần mộ tổ tiên ngoài nghĩa trang.

Không rõ trên đất Bắc có mấy loại hoa đào, riêng ở miền Nam có thể phân biệt bốn loại mai, từ khi còn học ở bậc trung học tôi đã được chỉ cho thấy bốn loại hoa này ở Vạn Mai Niên, thành phố Sa Đéc.

1.Mai vàng hay huỳnh mai : Phổ biến nhất, được trồng hay mọc tự nhiên ở rừng còi hoặc rừng thưa. Tên khoa học Ochna integerrina (Lour) Merr (O. Harmandii Lec.), họ Mai cao tới 6 mét, lá dầy, hoa có cuống dài thường trổ vào thời gian Tết, 5-10 cánh vàng mỏng dễ rụng, nhiều tiểu nhuỵ, hoa có thể cho tới 10 trái màu đen hột cứng. Vỏ cây có vị đắng, được dùng làm thuốc khai vị.
Có người gọi mai vàng là Lạp Mai theo giả thuyết mai có nguồn gốc từ xứ Chân Lạp.
Mai vàng còn có tên là Nam Chi, do thông thường trên một cành mai những hoa ở hướng Nam nở trước. Cũng do điển tích trong các loài điểu thú chỉ có Việt Điểu thích đậu trên cành mai, chim khác không chọn cành mai để đậu :

Ngựa Hồ nhớ đất Bắc, nghe hơi gió từ phương Bắc thổi tới thì cất tiếng hí lên ảo não, còn Việt Điểu chỉ đậu cành Nam, câu nầy còn tượng trưng cho lòng ái quốc, cụ Phan Bội Châu dùng làm bút hiệu Phan Sào Nam.

2. Mai Đỏ hay Mai Tứ Quí: Cây nhỏ, thường được trồng làm kiểng do đài đồng trưởng màu đỏ hợp cùng những trái nhỏ nhân cứng màu đen trông đẹp mắt. Tên khoa học Ochna atropurpurea DC.họ Mai. Lá dầy và cứng, bìa có răng, hoa 5 cánh vàng, nhiều tiểu nhuỵ, trổ quanh năm, màu đỏ thường thấy là của lá đài đồng trưởng, không phải là cánh hoa.

3. Mai trắng hay Bạch Mai: Cao tới 25 mét, thân thẳng, vỏ cây có màu hơi đỏ khi bị tróc, thường được trồng. Tên khoa học Ochrocarpus siamensis T. Anders Var. odoratisimus Pierre (?) cùng họ với cây mù u, khác với mai vàng và mai đỏ đẹp do sắc nhưng không hương, hoa bạch mai có 4 cánh trắng nhỏ rất thơm, nhiều tiểu nhuỵ, trái có một hột cứng.

4. Mai Chiếu Thuỷ: Cây nhỏ được trồng làm kiểng do cho lá đẹp và hoa thơm. Tên khoa học Wrightia religiosa (Teisjm & Binn.) Hook., không có họ hàng với ba loài mai kể trên, cùng họ với cây Trước Đào. Lá mỏng hai mặt cùng lợt màu, hoa nhỏ với 5 cánh trắng, cuống hoa dài xụ xuống.

Ngoài bốn loại mai vừa kể thường được thấy ở miền Nam và miền Trung, theo sách vở, đất Bắc có một giống mai khác gọi là mai bắc, giống cây đào, cây mận thuộc họ hường, tên khoa học Prunus sp (có người gọi là Cây Mơ hay Hạnh Mai dùng làm ô mai). Mai bắc lại có nhiều loại: Giang mai, thường gặp ở bờ sông; Lãnh mai, mọc trên núi; Giả mai, gặp ở đồng bằng và Cung mai, được trồng ở ngự viên hay cung điện của ông hoàng bà chúa.

Trung Hoa có nhiều mai bắc, họ hàng với mai miền Bắc Việt Nam. Những nơi có mai bắc được truyền tụng ở Trung Hoa là: Thượng Mai Sơn và Hạ Mai Sơn thuộc huyện An Hòa tỉnh Hồ Nam, Mai Sơn Trang phía đông huyện Lô Giang tỉnh An Huy và Mai Hoa Lãnh thuộc huyện Giang Tô tỉnh Giang Đô.

Thế nào là một cành mai đẹp? Thông thường người mua mai chọn những cành cong queo, có nhánh gọi là mai gầy hơn những cành suôn đuột. Tuy nhiên, một cành mai "đẹp" toàn diện phải hội đủ các yếu tố sau đây: có cành Văn lẫn Võ (nhánh ngang, nhánh đứng) tượng trưng cho sự phối hợp cương nhu, cành Quân lẫn cành Thần (ngắn, dài) biểu hiệu cho nghi lễ, cành Phụ lẫn cành Tử (lớn, nhỏ ) của tình cha con, hoa phải lưỡng phái, nghĩa là có nhụy đực lẫn nhuỵ cái nói lên sự cao quí của nghĩa phu thê. Người biết chơi hoa mai mua những nhánh có hoa còn phong nhụy, ước lượng đến mùng một, mùng hai Tết thì hoa nở rộ, tay mơ mua hoa nở, tới Tết hoa rụng hết chỉ còn trơ trọi cành.

Mua về đến nhà, cành mai được đốt gốc trước khi cắm vô bình, có người bỏ thuốc Aspirine trong nước để giữ cho hoa nở đều, lâu tàn, lâu rụng. Mai tứ quí, mai trắng, mai chiếu thuỷ nằm ở khu bán cây kiểng, có năm thấy bán, năm không, ba loại này thường trồng trong chậu sành. Mai trắng giá rất cao do hiếm và được uốn cong, cắt tỉa theo hình điểu thú hoặc nuôi dưỡng theo lối bonsai Nhật Bản, mai tứ quí và mai chiếu thuỷ thường là nguyên dạng.

Mai vàng được trồng từng cây một ở miền Tây, nhưng mọc hoang ở rừng thưa, rừng còi ở miền Đông Nam phần và Nam Trung phần: Thủ Đức, Biên Hòa, Long Khánh, La Ngà, Khánh Hòa, Đi,h Quán, Túc Trưng, Phan Thiết... là những nơi có rừng mai.

Do thiên nhiên ưu đãi, cách chơi mai của dân miền Đông bảnh hơn người Sài Gòn. Vào trung tuần tháng chạp họ vào rừng, chọn những cành mai tuyệt đẹp, cưa lấy, vác về nhà mà không cần xin phép ai. Đoạn họ lặt hết lá, nhúm lửa thui chỗ vết cắt rồi liệng vô một góc nhà. Hăm ba Tết, sau khi đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng, họ lôi những cành mai khô héo, tưởng như đã chết ấy ra, cắm vào bình hoa tráng men màu tím hay màu da cam sản xuất từ lò gốm Biên Hòa, đổ nước vô. Mười năm như một, chỉ vài ngày sau nụ hoa lú ra, lớn dần, rồi hoa nở thật đều vào những ngày ba mươi, mùng một, mùng hai Tết.

Tôi có người quen mới cư ngụ ở Bà Rịa khoảng năm năm, ông nầy có một cội mai già thật lớn và mấy chậu mai tuyệt đẹp trước sân nhà, ông cho biết đó là mai rừng bứng về, nếu tự trồng phải mất ít nhất hai chục năm, mà chưa chắc đã dẹp như vậy. Đầu mùa mưa ông vào rừng lựa gốc mai thật đẹp, đào đất 180 độ quanh gốc mai, cắt đứt rễ con lẫn rễ cái, mai sẽ héo vì đứt rễ, nhưng mưa xuống, rễ con ra, mai sống lại, đầu mùa mưa năm thứ hai ông vào rừng đào nốt 180 độ còn lại quanh gốc mai. Sau hai mùa mưa ông bứng cây mai về nhà, cả gốc lẫn ngọn với hoa lá tốt tươi.

Nhân nói chuyện mai xin ghi ra đây một câu thơ cổ, những chữ trong câu được dùng làm một bài thất ngôn tứ tuyệt, đọc ngược đọc xuôi đều hay. Câu thơ như sau :

" Vị tình lai ký nhất chi mai hữu biệt hoài "


Còn bài thơ là :

Vị tình lai ký nhất chi mai
Ký nhất chi mai hữu biệt hoài
Hoài biệt nhất mai chi nhất ký
Mai chi nhất ký vị tình lai


Bài thơ đã được dịch như sau :

Vì tình gởi lại một cành mai
Gởi một cành mai có biệt hoài
Hoài biệt cành mai xin gởi lại
Vì tình xin lại với cành mai


Mai Việt Nam trổ hoa vào đầu xuân, bên Trung Hoa, do điều kiện địa dư thay đổi, có loại mai ra hoa vào tiết tháng năm, theo như một đoạn thơ của Lý Bạch cảm hứng lúc ngồi uống rượu với Sử Lang Trung trên lầu Hoàng Hạc.

Hoàng hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa

(Tiếng sáo thổi trong lầu Hoàng hạc
Tháng năm mai rụng chốn Giang thành)


Tặng mai, đề thơ là một thú tiêu khiển tao nhã. Ngày đầu xuân, Lục Khải từ Giang Nam gởi một cành mai tặng bạn là Phạm Ngạc ở Trường An có kèm theo bài thơ :

Chiết mai phùng dịch sứ
Ký dữ lủng đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liêu tặng nhất chi xuân

(Bẻ mai gặp trạm sứ
Gởi cho người bạn thân
Giang Nam không vật lạ
Kính tặng một cành xuân)


Xin kể thêm ra đây những vần "thơ mai" được ưa chuộng hồi xưa.

Sương phủ cành mai năm giục hết
Ngày xuân con én lại đưa thoi

(Tản Đà- Năm hết hữu cảm)



...Đất nước miền Nam
Nước lành đất tốt
Nắng thơm mưa ngọt
Vàng son thay đổi hai mùa
Mùa vàng Tết mùa dân tộc
Mùa son mùa Tết học trò
*
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
Hoa cúc hoa mai vàng rỡ
Hoa vông hoa phượng đỏ hồng...


(Đông Hồ - Vàng son hoa nở hai mùa)


...Mái tranh nhè nhẹ vương tơ khói
Nắng đọng cô liêu vẳng tiếng gà
Muôn cánh mai vàng muôn cánh bướm
Tưng bừng yến tiệc náo làng hoa
Mái đầu giữ lại hồn xuân rụng
Giọt lệ rơi theo nhịp ngón ngà...


(Đông Hồ - Thanh Minh)


...Nụ hồng rải lối liễu tơ phai
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài
Bên gốc mai già, Xuân vắng vẻ
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai

(J. Leiba - Mai rụng)


...Đâu rồi dãy phố hoàng mai ấy!
Trời ba bữa nắng bốn đêm mưa
Đâu dáng thùy dương, thành quách cũ
Đâu tà áo lụa đế đô xưa
Sóng xô một buổi tan khuê các
Khói dậy vài phen nát liễu bồ


(Thùy Khanh - Tết Cố Đô Thời Vàng Son)


Đời nhà Hồ, Lê Cảnh Tuân đi sứ sang Trung Hoa vào dịp Tết, nhớ quê hương, ông đã làm một bài thơ có đoạn:

...Quy kỳ, hà nhật thị,
Lão tận cố hương mai

Tạm dịch:
Ngày nào về quê cũ
Mai già cỗi hết rồi


Tương tợ Lê cảnh Tuân, thi nhân Việt Nam hải ngoại cũng nhớ quê hương, cũng làm thơ "mai" để tỏ bày sự nhung nhớ. Tuy nhiên trong hai loại hoa Xuân phổ thông nhất, đào được dùng làm chất liệu trong thơ văn tương đối nhiều hơn mai, có lẽ do người Việt hải ngoại cư ngụ trên những phần đất ôn đới nhiều hoa đào.
Nét chung của những bài "thơ mai" ở hải ngoại là bâng khuâng nhớ nước, mênh mang nhớ nhà :

...Chiều âm thầm sương muối
Mây phong kín lối về
Bước xuân chiều vời vợi
Lữ thứ sầu lê thê...
*
Bao mùa mai nở trắng
Trắng lối mòn tâm tư
Xuân không về phố lạ
Cũng chẳng về ngõ xưa!...
 
V

voiconrachan

Hằng năm cứ vào dịp cuối năm, khi mùa Xuân nơi cuối ngõ và tân niên sắp trở về là mùa hoa mai lại rộ nở. Mỗi lần khi Xuân về ba tôi dẫn tôi ra chợ hosa Saigon, những năm xưa dó chợ hoa ngày Tết chạy dài trên đường Nguyễn Huệ từ khúc đường Lê Lợi thẳng về gần bờ sông Saigon. ...

Chợ hoa thì gồm đủ loại hoa từ các nơi mang về, hoa mai xem như đóng vai trò chính vào dịp Tết trong mỗi gia đình, rồi cuối cùng ba và tôi mang về ít nhất một nhành mai mà ông cẩn thận chọn.

Kỷ niệm và nguồn gốc hoa mai:

Ở xứ Mỹ đã lâu mà cái may cho tôi được định cư ngay tại quận Cam có phố Saigon Nhỏ nên mỗi dịp Tết đến, hương Xuân vẫn đong đầy quang phố, ví dụ ta đi từ khu vực chợ ABC đi đọc trên đường Bolsa hướng về góc Brookhurst xong quẹo trái về khu vục chợ Đồng Hương, tâm hồn của người lữ khách từ phương xa sẽ ấm lòng khi chính tay minh lựa chọn một cành mai chiếu thủy hay một chậu mai tứ quí vừa ý. Tôi nhớ ba tôi chỉ chọn nhành mai có nhiều búp thì minh mới chưng lâu trong cả tuần lễ Tết nhất để đón lộc may. Nếu muốn nụ mai sơm nở, chúng ta chỉ cần hơ lửa gốc mai, thế là hôm sau hoa mai nở rộ, lý do ba giải thích khi hơ lửa nóng, nhựa trong thân cây sẽ tăng độ chuyển dịch về ngọn để các búp mai buộc nở hoạ Những lộc lá non trên cành hoa mai cũng đươc người thưởng ngoạn mai như ba tôi chú ý nhiều. Màu xanh lục của lá non có màu lam như ngọc từ trong những búp hình móng gà tỏa rạ Những chùm lá non này đã đượm màu cho những chùm hoa vàng thêm ý nghĩa hơn trong vẻ đẹp.

Tôi nhớ có thấy hoa mai 6 cánh tại VN. Loại thông thường là 4 hay 5 cánh không quí bằng, dĩ nhiên trị giá bán không thể so sánh với mai 6 cánh được. Giữa loài hoa mai mà con người cũng định giá bằng những tiêu chuẩn khác nhau khi ta có dịp bàn thảo về các nhà trồng mai hay thưởng ngoạn hoa mai. Ba tôi có người bạn đồng sự rất say sưa với cây kiểng, mỗi khi ông bàn về cây kiểng với ba tôi tôi nghe như ông mang cả triết lý hay quan niệm dịch lý của phương Đông là đưa mai từ vũ trụ quan vào nhân sinh quan của truyền thống tạp tục của dân tộc. Tôi nhớ có lần tôi hỏi ba tôi vì sao tôi mang tên của loài hoa ngày Tết thì ba tôi giải thích ông rất thích hoa mai, những loại mai quí, và rồi tôi hân hạnh với cái tên "Ngọc Mai" mà ba tôi đã đặt cho tôi. Khi tôi viết bài này tôi nhớ lại những ân tình vô giá mà ông đã dành cho tôi.

Trở về chuyện Tết nhất đầu năm, chúng ta hãy nhớ lại kỷ niệm xưa nào đó ngó lên bàn thờ gia tiên có lư hương đồng bóng loáng, có mâm ngũ quả, có bánh chưng hay bánh tét, có mâm mứt, có trà mạn sen, có cặp dưa và có nhành mai ngày Tết và hỡi bạn còn nhớ hương thơm của mai khi tỏa hoa cho lộc may đầu năm ? Thật vậy, hoa mai rất thơm. Đặc biệt khi tiết trời đầu năm càng lạnh, khiến cho mai càng tỏa hương thơm ngát. Chính cái khứu giác đó làm cho ta trân quí mai hơn.

Tôi tra cứu sách thực vật học về nguồn gốc của hoa mai và được biết như sau: Tên Việt: mai vàng

Tên Hoa: hoàng mai

Tên Anh: Vietnamese mickey-mouse plant

Tên khoa học: Ochna integerrima

Họ: Ochnaceae Mai có các loại như mai tứ quý (Ochnaceae serrulata, quế diệp hoàng mai (Ochnaceae kirkii Oliv. Heima), mai chiếu thủy (Wrightia religiosa).

Mai và đào chính ra cùng dòng họ, nhưng về sau các nhà thực vật học nghiệm thấy đào (peach) hay mơ (apricot), mận (plum hay prune) và anh đào (cherry) là loại ra quả, nên tách riêng dòng họ mai ra. Mai có nhiều màu như: hoàng mai, hồng mai, và bạch mai. Ở VN người ta gọi hồng mai là hoa đào hay mơ, nở hoa dịp đầu xuân. Miền bắc có nhiều đào và mợ Tại miền nam, chỉ có vùng cao nguyên lâm viên Dà Lạt thích hợp cvho đào và mợ

Cây đào hay mơ như đã nói chỉ trồng được ở miền Bắc, là loại hoa đặc biệt của tết Nguyên đán. Nhiều người chuộng chơi hoa đào tết vì hoa đào có màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm. Đào được phân loại có 4 giống: Giống "đào bích" có màu hồng thẫm, sai hoa là một loại đào dùng để cắm chơi trong các ngày tết. "Đào phai" hoa màu hồng nhạt cũng sai hoa và thường được trồng để lấy quả. "Đào bạch" ít hoa hơn, tương đối khó trồng. Các loại đào này đều có hoa kép. Giống "đào thất thốn", cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và nhiều màu, màu đỏ thẫm thường được trồng vào chậu uốn thành các dạng thế.

Về loại mai vàng tại miền nam có nhiều. Nếu như hoa đào, chi mai là đặc sản của miền bắc vào ngày tết, thì hoa mai vàng lại là đặc sản của miền nam. Mai vàng thuộc họ hoàng mai, là một loại cây rừng. Cây mai vàng cũng rụng lá vào mùa Đông, thân, cành mềm mại hơn cành đào. Hoa mai vàng mọc thành chùm và có cuống dài treo lơ lửng bên cành, ở nách vệt cuống lá và hơi thưa. Hoa màu vàng, có mùi thơm, e ấp và kín đáo. Mai vàng còn có giống sau khi cho hoa còn kết quả màu đỏ nhạt bóng như ngọc, là mai tứ quí và nhị độ mai.

Mai trồng để lấy hoa vào dịp tết Nguyên đán được trồng từ hạt hay triết cành. Có thể trồng mai vàng ngoài vườn, vào bồn hay vào chậu đều được. Mai ưa ánh sáng và đất ẩm. Người miền Nam thường chơi hoa mai vàng vào những ngày tết. Còn giống hoa nước gọi là mai chiếu thủy, cây lá nhỏ, hoa nhỏ mọc chùm trắng và thơm, thường trồng vào núi đá non bộ, ra hoa mùa xuân, cây và cành được uốn tỉa lại thành cây thế.

*

Hoa mai trong văn chương VN:

Ngày Xuân là dịp người thi sĩ nâng bút, người họa sĩ vung cọ dể thi họa. Tôi truy lục được một số thơ văn tiêu biểu cho bài viết biên khảo này như sau:

1) Với Quách Tấn:

Thi sĩ Quách Tấn vốn yêu hoa mai và ông đã viết về loài hoa này như sau:

"Mai là một đề tài rất thông dụng. Thi nhân dùng để tượng trưng cho niềm tiết tháo, cho lòng tinh khiết của mình. Thói đa tình cũng thường biểu lộ trong thợ Chúng ta đã thấy rõ những điểm ấy trong bài thơ Mai chúng ta đã được đọc.

Và nhân đọc thơ Mai, chắc các em cũng như tôi không khỏi nghĩ luẩn quẩn:

- Mai kết bạn cùng tùng, trúc, luôn làm đại biểu cho giới nam nhi. Liễu luôn đại biểu cho giới phụ nữ. Còn Mai, khi thì đàn ông, khi thì đàn bà. Như thế có phải Mai là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát của loài thực vật có sắc, có hương ?

- Phi thị, thị phi cần chi phải biện bạch. Xem thơ mà tìm được cái thú do nhận thức, do tưởng tượng, do suy tự.., đó là đạt được mục đích. Bởi đối với chúng ta, xem thơ, nói chuyện thơ, không có mục đích nào khác hơn là hưởng thú, hưởng thú để di dưỡng tính tình, đẻ tăng tiến trên đường học vấn.

Nhưng không nên lý luận suông mà sanh chán. Bấy nay đã đem Mai của cổ nhân ra làm quà cho các em, tuy chưa được bao lăm, song các em đã biết qua mùi vị. Bây giờ tôi xin gửi đến các em một ít "cây nhà lá vườn".

Xuân Giáp Dần (1974), nhân khóm Mai trong vườn, trong tháng giêng, tháng hai nở lác đác, sang tháng ba mới nở vun cành, tôi cao hứng ngâm được một luật:

"Giếng ngọt Giang Nam một khóm già
Xuân ngoài sáu chục nhánh trĩu hoa
Tình Xuân còn đợi duyên công chúa
Hương muộn càng say giấc Tố Nga
Mộng ngấm sương khuya hồn đọng ngọc
Vần gieo gió sớm bút trao già
Hỡi người thức trắng đêm thương nhớ
Tiếng địch thành cao vọng bến xa"

Tứ tuy không thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của cổ nhân, nhưng tình cảm chân thiết, nên chép ra lòng không mấy ngại ngùng. Gần đây, nhân thấy một người hàng xóm vất nhánh mai hết thời nơi xó nhà bếp, tôi cảm tác được bốn vần:

"Trước Tết Mai là hoa Sau tết Mai là củi Trước bao nhiêu nâng niu Sau bấy nhiêu hất hủi Nâng niu Mai chẳng mừng Hất hủi Mai không tủi Nghìn trước ngẫm nghìn sau Khe trong lồng bóng núi."

Nhìn qua thì an nhiên tự tại, nhưng chíp chắp vẫn thấy chua chát ngậm làm ngon, làm ngon để giữ lòng được an nhiên tự tại. Tôi nhận thấy người cũng như mình, xưa cũng như nay, nói đến MAI chỉ vì mình mà nói, chớ chưa từng thấy thi nhân nào vịnh Mai vì Mai. Đối với Mai như thế kể cũng phụ phàng quá ! Song Viên Mai lại nói:

"Thơ vịnh vật mà không có ký thác thì chẳng khác lời đùa của trẻ em..., thì thơ kia là Mai hay Thi Nhân đâu còn là hai nữa, mà người đọc chúng mình còn phân biệt Ngã, Nhân. Thơ vịnh Mai là thế. Thơ vịnh các vật khác cũng thế.", Quách Tấn.

2) Với Vũ Hoàng Chương:

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương cũng cho nhiều thơ về hoa Mai như:

"Cao sâu từng nhập bóng cây già
Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhòa
Vườn trải băng sương trăm thức cỏ
Xuân còn thúy vũ một cành hoa
Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
Vang tiếng chim xanh về hót đấy
Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa"
(bài "Tết Đề Mai", VHC)
"Rồng lên một bóng u hoài
Ôi thôi từng khúc ngã dài tâm tư!
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành mai trắng mộng đêm trừ-tịch xuông..."
("Cành Mai Trắng Mộng", VHC)

"3) Với Sương Nguyệt Anh:

Khi viếng Điện Núi Bà hay Linh Sơn Thánh Mẫu, nơi thắng cảnh thiên nhiên rất hùng vỹ, uy nghi, trước những hàng mai trắng đang trổ hoa mừng xuân, nữ sĩ Thụy Khuê Sương Nguyệt Anh cảm tác hai bài thơ tiêu biểu là "Thưởng Bạch Mai Cảm Đề" và "Linh Sơn Nhất Thụ Mai" như sau:

"Non Linh đất phuớc trổ hoa nhân
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân
Mây lành gió lạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc mình băng hắt khói trần
Sắc nước hương trời nên cảm mến
Non linh đất phước trổ hoa thần.
("Thưởng Bạch Mai Cảm Đề")

Và bài thơ Đường làm bằng hán tự khi xuân vịnh về tại Linh Sơn mà nữ sĩ Thụy Khuê đã cảm tác:

"Quỳnh tư ngọc cốt bản thiên chân
Tịnh độ cô liêu viên tục trần
Noãn nhập ám hương xuân dật từ
Hàn xung sơ ảnh nguyệt tà thần
Tuyết trung tự khước lưu phong vận
Phong ngoại ưng liên đạp tuyết nhân
Thừa hứng mạc hiếm sơn thủy viễn
Đồng lai dữ tử phú dương xuân".
("Linh Sơn Nhất Thụ Mai")

Bài thơ trên được thi sĩ Hi Đạm chuyển ngữ sang Việt ngữ:

"Ngọc quỳnh cốt cách trời ban
Đất tịnh trơ vơ lánh thế gian
Ấm áp hương đầm xuân buổi sớm
Lạnh lùng bóng nhạt nguyệt đêm tàn
Nghĩ thân ánh tuyết hơi sương đượm
Thương kẻ hài sương gót tuyết chan
Mến cảnh nước non xa chớ ngại
Cùng lên ngâm vịnh tứ xuân tràn."

4) Với Cao Bá Quát:

Thơ ông ca ngợi hoa mai như sau:

"Thập tái luân giao cầu cố kiếm
Nhất sinh đê thứ bái mai hoạ"
(Mười năm chu du tìm gươm cổ
Cả đời chỉ cúi lạy hoa mai).

Cao tiên sinh cúi đầu lạy hoa mai một kiếp đời trân quí hoa mai.

5/ Với Nguyễn Du:

Nguyễn Du tiên sinh nhìn bộ đồ trà có cây mai làm đề tài. Nổi tiếng trong đương thời là bộ chén dĩa trà"Mai hạc" có câu thơ nôm trích trong truyện Kiều của Nguyễn Du:

"Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen."

Cây mai ở bộ tách uống trà này vẽ cành mai uốn cong rất nhiều hoa nở và một con chim hạc đứng trên bờ đá. Bộ trà mang màu men xanh ngọc và đề câu thơ chữ Hán "Hàn mai xuân tín tảo", tức là cành mai mùa lạnh báo tin xuân sớm về.

Thật ra văn hóa ấm trà còn nhiều lắm, tôi đọc tài liệu đâu dó mà nay đã quên. Nói chung trong văn hóa các loại sành sứ có dùng biểu tượng của hoa mai. Tính chất thanh nhã của loài hoa này đã đi vào văn hóa của dân tộc VN. Nghệ thuật hội họa cũng chọn mai làm bao đề tài cho mùa Xuân hay cho ngày Tết. Thơ văn hay hội họa xoay quanh 4 loài kiểng quí, hay nôm na là "tứ quí", mà hoa mai đã dân đầu: Mai, Lan, Cúc, Trúc. Các nhà Nho thường trang trí bộ tranh họa ngày xưa thời nho học thì hoa mai xuất hiện nhiều trong các bộ tranh vẽ qua nhiều kiểu khác nhau như mai bên hoa cúc, mai xen trong cành trúc hay mai lan song cặp,... bên cạnh là những dòng thơ ngắn bằng hán tự trong nét thư họa bay bướm và tất cả nói lên ý nghĩa cao quí của mùa Xuân về với chúng tạ Phải chăng hoa mai đã phô sắc diễm kiều, hoa mai đã đóng góp một sắc thái văn hóa dộc đáo cho dân tộc VN. Sự rực rỡ của màu hoa mai đang nở rộ trong ba ngày Tết thêm lá non nẩy lộc tươi mát mới là điềm thịnh vượng, phát lộc, phát tài và nó còn bao hàm ý nghĩa của sự hạnh phúc hay sung túc cho gia đình hay cho một đoàn thể hay một tổ chức thương mại nào đó nhân dịp đầu năm, khởi sự cho một chu kỳ mới của con người. Người người làm ăn phát đạt sung mãn của năm mới đang đến với xa hội nói chung.
 
Top Bottom