Mình có nè nhớ thanks nha
đề2:Nếu đào là hoa tiêu biểu cho Tết trên đất Bắc thì mai tượng trưng cho những ngày Xuân ở miền Nam. Giàu hay nghèo, mọi gia đình đều có một cành mai trong những ngày Tết, nhiều nhà ngoài cội mai già trước sân, bàn thờ ông bà, còn chưng mai trên bàn thờ Phật, phòng khách và ngay cả trên phần mộ tổ tiên ngoài nghĩa trang.
Không rõ trên đất Bắc có mấy loại hoa đào, riêng ở miền Nam có thể phân biệt bốn loại mai, từ khi còn học ở bậc trung học tôi đã được chỉ cho thấy bốn loại hoa này ở Vạn Mai Niên, thành phố Sa Đéc.
1.Mai vàng hay huỳnh mai : Phổ biến nhất, được trồng hay mọc tự nhiên ở rừng còi hoặc rừng thưa. Tên khoa học Ochna integerrina (Lour) Merr (O. Harmandii Lec.), họ Mai cao tới 6 mét, lá dầy, hoa có cuống dài thường trổ vào thời gian Tết, 5-10 cánh vàng mỏng dễ rụng, nhiều tiểu nhuỵ, hoa có thể cho tới 10 trái màu đen hột cứng. Vỏ cây có vị đắng, được dùng làm thuốc khai vị.
Có người gọi mai vàng là Lạp Mai theo giả thuyết mai có nguồn gốc từ xứ Chân Lạp.
Mai vàng còn có tên là Nam Chi, do thông thường trên một cành mai những hoa ở hướng Nam nở trước. Cũng do điển tích trong các loài điểu thú chỉ có Việt Điểu thích đậu trên cành mai, chim khác không chọn cành mai để đậu :
Ngựa Hồ nhớ đất Bắc, nghe hơi gió từ phương Bắc thổi tới thì cất tiếng hí lên ảo não, còn Việt Điểu chỉ đậu cành Nam, câu nầy còn tượng trưng cho lòng ái quốc, cụ Phan Bội Châu dùng làm bút hiệu Phan Sào Nam.
2. Mai Đỏ hay Mai Tứ Quí: Cây nhỏ, thường được trồng làm kiểng do đài đồng trưởng màu đỏ hợp cùng những trái nhỏ nhân cứng màu đen trông đẹp mắt. Tên khoa học Ochna atropurpurea DC.họ Mai. Lá dầy và cứng, bìa có răng, hoa 5 cánh vàng, nhiều tiểu nhuỵ, trổ quanh năm, màu đỏ thường thấy là của lá đài đồng trưởng, không phải là cánh hoa.
3. Mai trắng hay Bạch Mai: Cao tới 25 mét, thân thẳng, vỏ cây có màu hơi đỏ khi bị tróc, thường được trồng. Tên khoa học Ochrocarpus siamensis T. Anders Var. odoratisimus Pierre (?) cùng họ với cây mù u, khác với mai vàng và mai đỏ đẹp do sắc nhưng không hương, hoa bạch mai có 4 cánh trắng nhỏ rất thơm, nhiều tiểu nhuỵ, trái có một hột cứng.
4. Mai Chiếu Thuỷ: Cây nhỏ được trồng làm kiểng do cho lá đẹp và hoa thơm. Tên khoa học Wrightia religiosa (Teisjm & Binn.) Hook., không có họ hàng với ba loài mai kể trên, cùng họ với cây Trước Đào. Lá mỏng hai mặt cùng lợt màu, hoa nhỏ với 5 cánh trắng, cuống hoa dài xụ xuống.
Ngoài bốn loại mai vừa kể thường được thấy ở miền Nam và miền Trung, theo sách vở, đất Bắc có một giống mai khác gọi là mai bắc, giống cây đào, cây mận thuộc họ hường, tên khoa học Prunus sp (có người gọi là Cây Mơ hay Hạnh Mai dùng làm ô mai). Mai bắc lại có nhiều loại: Giang mai, thường gặp ở bờ sông; Lãnh mai, mọc trên núi; Giả mai, gặp ở đồng bằng và Cung mai, được trồng ở ngự viên hay cung điện của ông hoàng bà chúa.
Trung Hoa có nhiều mai bắc, họ hàng với mai miền Bắc Việt Nam. Những nơi có mai bắc được truyền tụng ở Trung Hoa là: Thượng Mai Sơn và Hạ Mai Sơn thuộc huyện An Hòa tỉnh Hồ Nam, Mai Sơn Trang phía đông huyện Lô Giang tỉnh An Huy và Mai Hoa Lãnh thuộc huyện Giang Tô tỉnh Giang Đô.
Thế nào là một cành mai đẹp? Thông thường người mua mai chọn những cành cong queo, có nhánh gọi là mai gầy hơn những cành suôn đuột. Tuy nhiên, một cành mai "đẹp" toàn diện phải hội đủ các yếu tố sau đây: có cành Văn lẫn Võ (nhánh ngang, nhánh đứng) tượng trưng cho sự phối hợp cương nhu, cành Quân lẫn cành Thần (ngắn, dài) biểu hiệu cho nghi lễ, cành Phụ lẫn cành Tử (lớn, nhỏ ) của tình cha con, hoa phải lưỡng phái, nghĩa là có nhụy đực lẫn nhuỵ cái nói lên sự cao quí của nghĩa phu thê. Người biết chơi hoa mai mua những nhánh có hoa còn phong nhụy, ước lượng đến mùng một, mùng hai Tết thì hoa nở rộ, tay mơ mua hoa nở, tới Tết hoa rụng hết chỉ còn trơ trọi cành.
Mua về đến nhà, cành mai được đốt gốc trước khi cắm vô bình, có người bỏ thuốc Aspirine trong nước để giữ cho hoa nở đều, lâu tàn, lâu rụng. Mai tứ quí, mai trắng, mai chiếu thuỷ nằm ở khu bán cây kiểng, có năm thấy bán, năm không, ba loại này thường trồng trong chậu sành. Mai trắng giá rất cao do hiếm và được uốn cong, cắt tỉa theo hình điểu thú hoặc nuôi dưỡng theo lối bonsai Nhật Bản, mai tứ quí và mai chiếu thuỷ thường là nguyên dạng.
Mai vàng được trồng từng cây một ở miền Tây, nhưng mọc hoang ở rừng thưa, rừng còi ở miền Đông Nam phần và Nam Trung phần: Thủ Đức, Biên Hòa, Long Khánh, La Ngà, Khánh Hòa, Đi,h Quán, Túc Trưng, Phan Thiết... là những nơi có rừng mai.
Do thiên nhiên ưu đãi, cách chơi mai của dân miền Đông bảnh hơn người Sài Gòn. Vào trung tuần tháng chạp họ vào rừng, chọn những cành mai tuyệt đẹp, cưa lấy, vác về nhà mà không cần xin phép ai. Đoạn họ lặt hết lá, nhúm lửa thui chỗ vết cắt rồi liệng vô một góc nhà. Hăm ba Tết, sau khi đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng, họ lôi những cành mai khô héo, tưởng như đã chết ấy ra, cắm vào bình hoa tráng men màu tím hay màu da cam sản xuất từ lò gốm Biên Hòa, đổ nước vô. Mười năm như một, chỉ vài ngày sau nụ hoa lú ra, lớn dần, rồi hoa nở thật đều vào những ngày ba mươi, mùng một, mùng hai Tết.
Tôi có người quen mới cư ngụ ở Bà Rịa khoảng năm năm, ông nầy có một cội mai già thật lớn và mấy chậu mai tuyệt đẹp trước sân nhà, ông cho biết đó là mai rừng bứng về, nếu tự trồng phải mất ít nhất hai chục năm, mà chưa chắc đã dẹp như vậy. Đầu mùa mưa ông vào rừng lựa gốc mai thật đẹp, đào đất 180 độ quanh gốc mai, cắt đứt rễ con lẫn rễ cái, mai sẽ héo vì đứt rễ, nhưng mưa xuống, rễ con ra, mai sống lại, đầu mùa mưa năm thứ hai ông vào rừng đào nốt 180 độ còn lại quanh gốc mai. Sau hai mùa mưa ông bứng cây mai về nhà, cả gốc lẫn ngọn với hoa lá tốt tươi.
Nhân nói chuyện mai xin ghi ra đây một câu thơ cổ, những chữ trong câu được dùng làm một bài thất ngôn tứ tuyệt, đọc ngược đọc xuôi đều hay. Câu thơ như sau :
" Vị tình lai ký nhất chi mai hữu biệt hoài "
Còn bài thơ là :
Vị tình lai ký nhất chi mai
Ký nhất chi mai hữu biệt hoài
Hoài biệt nhất mai chi nhất ký
Mai chi nhất ký vị tình lai
Bài thơ đã được dịch như sau :
Vì tình gởi lại một cành mai
Gởi một cành mai có biệt hoài
Hoài biệt cành mai xin gởi lại
Vì tình xin lại với cành mai
Mai Việt Nam trổ hoa vào đầu xuân, bên Trung Hoa, do điều kiện địa dư thay đổi, có loại mai ra hoa vào tiết tháng năm, theo như một đoạn thơ của Lý Bạch cảm hứng lúc ngồi uống rượu với Sử Lang Trung trên lầu Hoàng Hạc.
Hoàng hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa
(Tiếng sáo thổi trong lầu Hoàng hạc
Tháng năm mai rụng chốn Giang thành)
Tặng mai, đề thơ là một thú tiêu khiển tao nhã. Ngày đầu xuân, Lục Khải từ Giang Nam gởi một cành mai tặng bạn là Phạm Ngạc ở Trường An có kèm theo bài thơ :
Chiết mai phùng dịch sứ
Ký dữ lủng đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liêu tặng nhất chi xuân
(Bẻ mai gặp trạm sứ
Gởi cho người bạn thân
Giang Nam không vật lạ
Kính tặng một cành xuân)
Xin kể thêm ra đây những vần "thơ mai" được ưa chuộng hồi xưa.
Sương phủ cành mai năm giục hết
Ngày xuân con én lại đưa thoi
(Tản Đà- Năm hết hữu cảm)
...Đất nước miền Nam
Nước lành đất tốt
Nắng thơm mưa ngọt
Vàng son thay đổi hai mùa
Mùa vàng Tết mùa dân tộc
Mùa son mùa Tết học trò
*
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
Hoa cúc hoa mai vàng rỡ
Hoa vông hoa phượng đỏ hồng...
(Đông Hồ - Vàng son hoa nở hai mùa)
...Mái tranh nhè nhẹ vương tơ khói
Nắng đọng cô liêu vẳng tiếng gà
Muôn cánh mai vàng muôn cánh bướm
Tưng bừng yến tiệc náo làng hoa
Mái đầu giữ lại hồn xuân rụng
Giọt lệ rơi theo nhịp ngón ngà...
(Đông Hồ - Thanh Minh)
...Nụ hồng rải lối liễu tơ phai
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài
Bên gốc mai già, Xuân vắng vẻ
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai
(J. Leiba - Mai rụng)
...Đâu rồi dãy phố hoàng mai ấy!
Trời ba bữa nắng bốn đêm mưa
Đâu dáng thùy dương, thành quách cũ
Đâu tà áo lụa đế đô xưa
Sóng xô một buổi tan khuê các
Khói dậy vài phen nát liễu bồ
(Thùy Khanh - Tết Cố Đô Thời Vàng Son)
Đời nhà Hồ, Lê Cảnh Tuân đi sứ sang Trung Hoa vào dịp Tết, nhớ quê hương, ông đã làm một bài thơ có đoạn:
...Quy kỳ, hà nhật thị,
Lão tận cố hương mai
Tạm dịch:
Ngày nào về quê cũ
Mai già cỗi hết rồi
Tương tợ Lê cảnh Tuân, thi nhân Việt Nam hải ngoại cũng nhớ quê hương, cũng làm thơ "mai" để tỏ bày sự nhung nhớ. Tuy nhiên trong hai loại hoa Xuân phổ thông nhất, đào được dùng làm chất liệu trong thơ văn tương đối nhiều hơn mai, có lẽ do người Việt hải ngoại cư ngụ trên những phần đất ôn đới nhiều hoa đào.
Nét chung của những bài "thơ mai" ở hải ngoại là bâng khuâng nhớ nước, mênh mang nhớ nhà :
...Chiều âm thầm sương muối
Mây phong kín lối về
Bước xuân chiều vời vợi
Lữ thứ sầu lê thê...
*
Bao mùa mai nở trắng
Trắng lối mòn tâm tư
Xuân không về phố lạ
Cũng chẳng về ngõ xưa!...