[Văn 8] Đề Thi HkI

P

phuphu123

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1/ thuyết minh về chiếc nón lá
2/Thuyết minh về chiếc mắt kính
3/Thuyết minh về chiếc áo dài
4/Thuyết minh về con vật yêu thích (con trâu bạn nha)
5/Thuyết minh về cây mai ngày tết
6/Thuyết minh về chiếc bút bi

làm dùm mình nha@-)@-):)|
 
Last edited by a moderator:
S

sam_biba

2/Thuyết minh về chiếc mắt kính

Chiếc mắt kính là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày.Không chỉ có khả năng điều trị các tật khúc xạ,kính còn đem lại thẩm mỹ qua nhiều lọai có kiểu dáng, màu sắc phong phú.
Không ai biết tên của người làm ra cặp kính đầu tiên. Chỉ biết rằng nó ra đời ở Ý vào năm 1920, Đấu tiên, thiết kế của kính đeo ma91t chỉ gồm 2 mắt kính nối với nhau bằng 1 sợi dây đè lên mũi. Vào năm 1930, 1 chuyên gia quang học ở Luân Đôn sáng chế ra 2 càng (ngày nay gọi là gọng kính) để mắt kính gá vào 1 cách chắc chắn.
Cấu tạo của kính nói chung không xa lạ gì với chúng ta. Một chiếc kính đeo mắt gồm có 2 bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Chiếc gọng kính chiếm 80% vẻ đẹp của kính. Gọng kính là bộ phận nâng đỡ tròng kính và là khung cho mỗi chiếc kính. Giữa phần gọng trước và sau có một khớp nối bằng sắt nhỏ. Chúng được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Thế nhưng, đây chỉ đơn thuần về mặt hình thức bên ngòai, có thể thay đổi tùy theo ý thích cá nhân. Bộ phận còn lại của kính – tròng kính – không thể thay đổi cấu tạo gốc và có hẳn 1 tiêu chuẩn quốc tế riêng. Tròng kính ban đầu có hình tròn, vuông, sau khi chọn được lọai gọng phù hợp sẽ được mài, cắt cho vừa khít với gọng đó. Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chồng tia UV (một lọai tia gây hại cho mắt) và tia cực tím. Những lọai kính chống tia UV được tráng một lớp chất đặc biệt có màu ánh xanh, khả năng chống tia UV hơn hẳn lọai kính chỉ có plastic hay thủy tinh. Ngoài ra, 1 chiếc kính đeo mắt còn có 1 số bộ phận phụ như ốc, vít... Chúng có kích thước khá nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của chiếc kính.
Từ khi ra đời cho đến nay, chiếc kính đeo mắt đã có hành trăm loại khác nhau, phù hợp với nhu cầu và chức năng của chúng đối với người dùng. Những người bị cận, viễn sẽ có những chiếc kính có thấu kình lối lõm thích hợp để nhìn rõ hơn. Nếu không muốn chiếc gọng kính gây vướng víu, ta có thể lực chọn chiếc kính áp tròng, vừa tiện lợi vừa mang tính thẫm mĩ. Hay các loại kính râm bảo vệ mắt khi đi đường, có thể thay đổi màu khi tiếp xúc với ánh nắng Mặt Trời. Ngoài ra, có 1 số lạo kính đặc biệt chỉ dùng trong 1 số trường hớp như kính bơi, kính của những người trượt tuyết, kính của những nhà thám hiểm vùng cực...
Để lực chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn cua bác sĩ. Nếu khéo chọn, 1 chiếc kính có thể che lấp khuyết điễm mà vẫn làm nối bật những đường nét riêng. Không nên đeo loại kính có độ làm sẵn vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùnhh cả 2 tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ 6-8 lần trong vòng từ 10-12 tiếng để bảo vệ mắt.
Kính là một vật không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Nếu biết cách sử dụng và bảo quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình. Hãy cùng biến “lăng kính”của “cửa sổ tâm hồn” mỗi người cùng trở nên phong phú và hòan thiện hơn
 
S

sam_biba

1/ thuyết minh về chiếc nón lá
Nón lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nử Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của đàn bà Việt Nam, chắc chắn không ai chối cải. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.



Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẽ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:



Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa

Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa

Nón rơm. Nón làm bằng cộng rơm ép cứng

Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội

Nón cối : người miền Nam rất sợ loại nón nầy xuất hiện sau năm 1975.

Nón cời . nón rách

Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa

Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp

Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.

Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa

Nón chảo : thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thai Lan còn dùng

Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang

Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ

v.v



Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm. ? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu ; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành . Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón
Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Qui Diệp là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá nầy làm cái tơi để muà đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ Qui Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.
Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh .



Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nang quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại



Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồn lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưởi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lưả nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như cũ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón. Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung nầy phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cở khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ...



Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt nam



Nón em chẳng đáng mấy đồng,

Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham

Nón em nón bạc quai vàng

Thì em mới dám trao chàng cầm tay

Tiếc rằng vì nón quai mây

Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm
Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thu, thiếu nữ Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao ( hình trên trong Văn Miếu)

Thưở xưa con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẽ đẹp bề ngoài..



Chưa chồng nón thúng, quai thao

Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai

Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa

Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành.



Túa ống tơ ngà tha thướt gió

Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh

Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón

Say mắt chàng trai tiếc gửi tình

Nhung dép cong nghiêm bước thẳng đường

Ðâu ngờ tơ nón gió vương vương

Chàng về, mắt dắm sầu xa vắng

Cả một trời xuân nhạt nắng hường

Chiếc nón quai Thao Anh Thơ



Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai



Còn duyên nón cụ quai tơ

Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong



Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng .. .



Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vần trăng non dưới vành nón lá :



Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón

Chiều mùa thu mây che có nắng đâu

Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu

Sẽ làm khô làn môi en dịu ướt

Còn ta mắt anh..

Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước

Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước

Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau

Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào

Ðôi chân bước ..anh nghe chừng sai nhịp.

Thu Nhất Phương





Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương... và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế



Sông Hương lắm chuyến đò ngang

Chờ anh em nhé, đừng sang một mình

Ca dao



Sao anh không về thăm quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên

Nguyễn Khoa Điền



Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay

Nón bài thơ e lệ nép trong tay

Bích Lan



Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu nữ. lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.



Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ

Gió cầu vương áo nàng tôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ



Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều



Anh về Bình Định ba ngày

Dặn mua chiếc nón lá dày không mua



Nón bài thơ đặc sản Huế nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao:

Cưới nàng đôi nón Gò Găng

Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn



Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài. Ðể làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm


Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành – An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25-30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu cho đợt sau. mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền Nam



Nhớ nón Gò Găng

Vầng trăng đập đá

Sông dài sóng cả

Người quân tử,

Khăn điều vắt vai..



Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó. ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay
 
T

thuylinh15

4/ THUYẾT MINH VỀ CON TRÂU
Chồng cày, vợ cáy
Con trâu đi bừa Khi nghe xong câu ca dao trên, bạn có suy nghĩ gì? nó cho ta biết, từ xa xưa khi người nông dân biết, biết cấy thì con trâu đã có mật để đi bừa. Sáng, người thức dậy đi ra đồng trâu củng phải đi theo. Chiều, người về nhà thì trâu mới được về chuồng. Trâu gắn bó với người như hình với bóng. Trâu giúp cho ruộng lúa tốt tươi không còn bóng hình ngọn cỏ
Con trâu thì đối với những đứa trẻ như chúng mình quá quen thuộc rồi. Thế nhưng đặc điểm chung của con trâu còn nhiều bạn chưa biết nên tôi xin chia sẽ kiến thức như sau: Trâu là một loài động vật móng guốc, thức ăn của những chú trâu chủ yếu là cỏ và thường ợ lên nhai lại vào lúc nghỉ ngơi. Nào chúng ta cùng mổ xẻ xem các bộ phận của chú trâu nào. Trâu gồm ba bộ phận chính: Chú trâu của chúng ta có chiếc đầu hình tam giác với hai cái tai lúc nào cũng ve vẩy, hai còn mắt tròn, cái mũi to tướng, chiếc miệng chỉ có mỗi hàm răng dưới. thân trâu là một chiếc bụng chứa cỏ được gắn liền với cái đầu bởi cái cổ. Trâu có bốn cái chân vừa to, vừa dài, vừa khỏe để giúp người nông dân cày, bừa. Khi có những con vật như ruồi, muỗi nhỏ làm trâu ngứa ngáy thì chú ta sẽ dùng đến chiếc đuôi. Trâu có lớp da dày để chịu "một nắng, hai sương" với người nông dân trên ruộng lúa.
Chú trâu tuy trông vây thôi chứ giúp cho con người nhiều việc lắm đó nha: Nào là giúp người nông dân cày, bừa bằng sức kéo của mình nè, nào là cho ta món thịt trâu ngon cực kì, cho ta da để làm trống và các thứ đồ da khác, cho ta phân để bón cho cây trồng tươi tốt, cho ta món sữa trâu ngon, béo, bổ, nhưng không hề " rẻ ", sừng trâu thì để làm thuốc và các đồ mĩ nghệ khác, trâu giúp phát triển kinh tế "buôn trâu". Trâu còn là những "dũng sĩ" trong môn "chọi trâu".
Các bạn có biết các bác nông dân của chúng ta nuôi trâu như thế nào không? Sáng, người nông dân đi cày, đem trâu ra ngoài đồng để trâu ăn cỏ, trưa cho trâu uống nước và tắm cho trâu ở các vũng nước, chiều phải đắt trâu về chuồng, Những chú trâu cần phải có một chiếc chuồng mát vào mùa hè và ấm vào mùa đông, khi chuồng có nhiều muỗi thì các bác công nhân cò phải ung cỏ khô, thả màn để những con muỗi không làm phiền chú trâu nhà ta. Các bạn biết đó, thức ăn chủ yếu của trâu là cỏ nhưng cũng có thể cho trâu ăn cháo sau mỗi trân ốm hoặc sau khi sinh, cho trâu ăn rơm hoặc cỏ khô trong mùa đông lạnh giá không có cỏ tươi, người ta con cho những" dũng sĩ" trâu của chúng ta "xơi" "hột vịt lộn" trước mỗi giờ thi đấu.
Những cô nàng trâu đến độ tuổi nhất định sẽ cho ra đời những chú trâu con. Trâu sinh mỗi năm từ một đến hai lứa, mỗi lứa khoảng một con hoặc hơn. Những chú trâu khi mới sinh nặng từ hai mươi đến hai lăm kg. Nhưng những chú trâu trưởng thành nặng đến ba trăm năm muơi kg.
Những chú trâu đã sớm được con người thuần hóa nên có tình cảm đặc biệt với con người như bài ca dao:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đâu trâu đấy ai mà quảng công
Bao giở cây lúa còn bông
Là còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Trâu giúp ta thật nhiều. Mặc dù ở ngoài đồng ruộng hiện nay nhiều những con "trâu sắt" nhưng hình ảnh con trâu với người nông dân vẫn là biểu tượng của đất nước VIỆT NAM. Chú mục đồng thổi sáo trên lưng trâu, chú mục đồng đọc sách trên lưng trâu đã là những đề tài để các thi sĩ, họa sĩ chú trọng. Hình ảnh chú trâu cần cù vẫn còn sống mãi với đất nước VIỆT NAM NGÀN NĂM VĂN HIẾN các bạn nhỉ ?.
 
Top Bottom