[văn 8]Đề cương học kì 1

H

hieukaka321

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Câu1 : Nêu điểm giống và khác nhau chủ yếu về nội dung và hình thức nghệ thuật của ba văn bản : trong lòng mẹ;lão hạc;tức nước vỡ bờ ?

Câu2 : trình bày khái quát giá trị nội dung,nghệ thuật của các khổ thơ trong bài ông đồ của vũ đình liêm

Câu3 : qua hai bài thơ "vào nhà ngục quảng đông"và"đập đá ở côn lôn".hãy trình bày lại những cảm nhận của mìnhveef vẻ đẹp hào hùng,lãng mạng của hình tượng nhà nho yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ 20

mong mọi người giúp mình trả lời các câu hỏi:-j:-j:-j:-j:-j:-j:-j:-j:-j


THANK TRƯỚC VÀ CẢM TẠ^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^
 
A

anhtraj_no1

câu 2 :
Dấu hiệu nghề nghiệp: Giấy đỏ – mực tàu.

Lúc vén màn, ông đồ xuất hiện:

Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.

Nếu tinh ý, ta đã nhận ra tín hiệu báo trước cái kết cục của thân phận ông đồ. Ông đã xuất hiện một cách đơn độc, trong thế yếu của một lực lượng suy tàn. Ông đồ đang đi làm nghề viết thuê. Có nghĩa là ông đã làm sai nghề, sai chức năng, sai vị trí. Ông làm “thợ đụng” khi thất cơ, lỡ vận.

Bởi lẽ, chính danh, ông đồ phải là Thầy. Thầy dạy học, là hạng “Nhất sĩ” trong xã hội, ở cái thế quân - sư - phụ, là người dạy đạo thánh hiền, dạy người, dạy đời. Ông luôn nghiêm nghị trong những học đường trang nghiêm, có quyền dạy bảo các đồ đệ đến cửa Khổng sân Trình tầm sư học đạo. Ông luôn được xã hội trọng vọng. Thời trước, muốn có câu đối phải “đi xin chữ”. Muốn “xin chữ” cũng phải khăn đen áo dài, trầu rượu bái thầy. Thầy cho chữ rồi cũng phải tạ ơn thầy.

Thế mà, lúc này thật éo le. Ông đồ ngồi lê trên hè phố “bày mực tàu giấy đỏ” giữa phố chợ đông đúc, xô bồ để bán chữ.

Ôi! từ cái vị thế Thầy thành kẻ làm thuê kiếm sống. Hẳn ông vui khi có “Bao nhiêu người thuê viết” chăng ? Không, mặt ông như bị xát muối. Ngồi đây, lẽ tất nhiên, ông phải tuân theo luật thị trường, là hạ mình xuống, xem khách hàng là thượng đế. Xót xa vô cùng.

Cái nghề mới mà ông chọn báo hiệu lớp người ông đã lỗi thời, không còn đắc dụng nữa. Giá như mô tả ông đồ, nhưng là ông đồ nghèo vào cái buổi thời tàn của nho học trong một lớp học “năm ba đứa”, “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” thì dù có bẽ bàng đi chăng nữa cũng không đến nổi thê thảm như cảnh ông đồ ở trong bài thơ này.

- Dấu hiệu thời gian: Hoa đào nở.

Đó là một khoảnh khắc của năm tháng. Ông đồ làm nghề phụ, nhưng đâu phải có việc thường xuyên, quanh năm suốt tháng. Ông chỉ có việc làm trong đôi ba ngày Tết. Nhưng rồi, trong khoảnh khắc ấy “ông ngồi đấy” mà “qua đường không ai hay”.

Thân phận ấy thật hẩm hiu, mặc dù, ông là ông đồ thứ thiệt, là người tài hoa điệu nghệ, đấy bản lĩnh.

Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.

Cấu tứ làm nổi bật sự tương phản nghiệt ngã giữa hai trạng huống: Hữu tài – bất dụng, hữu tài – lỗi thời.

Phong cách ngôn ngữ, cách cảm nhận của Vũ Đình Liên khác với cách tả thực của Đoàn Văn Cừ trong “Chợ Tết”.

Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.

Chúng ta thấy có sự đối lập giữa hai cảnh đời, hai thân phận trong hai bài thơ làm cho người đọc cũng cảm thương xót xa với ông thầy đồ
Thời gian, bối cảnh ra đời của bài thơ là giai đoạn đầu của thế kỷ XX, khi mà “cái học nhà nho đã hỏng rồi, mười người đi học, chín người thôi” (Trần Tế Xương).

Tháng 4/1943, Hội đồng Hoàn Thiện nền giáo dục bản xứ quyết định bãi bỏ việc học chữ Hán trong các trường Pháp Việt tiểu học ở Bắc kỳ, Trung kỳ; ngày 21-12-1947, toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành qui chế về giáo dục Đông Dương, qui định việc học chữ Nho ở bậc sơ đẳng tiểu học không phải là bắt buộc. Và sau đó, Nam triều có các đạo dụ bãi bỏ khoa cử cũ: 1918, khoa thi Hương cuối cùng ở Trung kỳ; 1919, khoa thi Hội cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Bài thơ cũng xuất hiện trong giai đoạn có cuộc tranh luận về văn học nghệ thuật. Thân phận ông đồ già phản ánh thực trạng của thời đại.
- Biểu tượng ông đồ: Hình ảnh ông đồ xuất hiện trong suốt bài dưới nhiều mã: ông đồ – mực tàu, giấy đỏ – hoa tay – nét phượng múa rồng bay – lá vàng – người muôn năm cũ – hồn.

Theo Vũ Đình Liên thì chính ông đã ngậm ngùi xác nhận rằng ông đồ trong bài thơ của mình chính là “cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn”. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể xem “lá vàng” là một hình ảnh rất đắt của bài thơ. “Lá vàng rơi trên giấy”. “Lá vàng” dùng ở đây, lúc này, có điều gì khác lạ. Nó đã phá thể cái biểu tượng phổ quát trong văn chương – là mùa thu. Nhưng lúc này là lúc hoa đào nở, là ngày tết, là buổi giao hoà giữa Đông – Xuân. Thế mà vẫn còn lá vàng sao ?

Đúng, còn 1 chiếc lá vàng muộn màng, hiếm hoi, dường như vẫn còn nuối tiếc, vẫn muốn níu kéo hơi sống tàn. Và rồi, nó cũng phải rơi rụng. Và quái ác thay, nó đã rơi đúng vào tờ giấy nhỏ nhoi, giữa cái bãng lãng của không gian mùa xuân. Hình ảnh làm tăng vẻ ảm đạm, làm đau nhói con tim ông đồ đang đăm đắm chờ khách.

Chiếc lá ấy chính là hình ảnh ông đồ đơn độc, thời tàn và tờ giấy đỏ kia là cái xã hội mới lạ đang nhen nhóm.

Ở khổ thơ cuối, hình ảnh ông đồ lại được khái quát hơn nhờ nghệ thuật sử dụng ngôn từ.

* Về lượng: ông đồ (1 người) -> những người -> hồn
↓ ↓
* Trạng thái: cụ thể -> trừu tượng
↓ ↓
hiện hữu -> hư ảo

Không phải chỉ một ông đồ lùi về dĩ vãng mà cả những ông đồ, không chỉ một thế hệ ông đồ mà cả muôn năm cũ. Các từ ngữ: hồn, xưa, muôn năm cũ rất phù hợp với ngữ cảnh, với không khí tết nhất, giữa giờ khắc giao hoà của cũ mới, của đổi thay, gợi nhiều xúc động.

Hai dòng cuối “Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ”, âm hưởng vang xa, một cảm tưởng rất nhân văn: vừa thương cảm, vừa tôn vinh vừa nuối tiếc, vừa nhắc nhở nhớ tới cái tinh hoa một thời.
 
L

lan_phuong_000

Câu 1: a. Giống nhau
- Phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam trước năm 1945 (bộ mặt xấu xa của tâng lớp thống trị, đời sông cực khổ của người dân.
- Thể hiện sự đồng cảm, thương yêu, sự trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của tác giả đối với những người nghèo khổ, bất hạnh.
- Những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật tự sự (kết hợp giứa tự sự với miêu tả và biểu cảm, lựa chọn ngôi kể, xây dựng nhân vật,…)
Ôn tập truyện kí việt nam
2.Những điểm giống và khác nhau chủ yếu về nội dung và hình thức nghệ thuật của ba văn bản Trong lòng mẹ, Tức nước vỡ bờ, Lão Hạc
a. Giống nhau
b. Khác nhau
- Nét riêng của mỗi văn bản (Nội dung: Trong lòng mẹ: Nỗi đau mồ côi và tình yêu thương mẹ của bé Hồng, Tức nước vỡ bờ: Phê phán chế độ cũ và ca ngợi người phụ nữ nông dân, Lão Hạc: Số phận, phẩm chất của người nông dân cùng khổ;…)
Câu 3: http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?p=1772127
 
Top Bottom