Văn 8-Bài viết số 5 (học kì II)

T

thuyhoa17

ai gíp em viết bài về danh lam thắng cảnh của ninh bình với, em cảm ơn lăm, nếu được thì call me theo số 01247.248.227@-):-SS:-SS
Tài liệu về các địa điểm du lịch ở Ninh bình.
Chùa Bích Động- Khu du lịch Tam Cốc-Bích Động, xã Ninh Hải (Hoa Lư) được xây dựng vào thời Hậu Lê, ở một vị trí đẹp, xung quanh là dãy núi Phi Vân Sơn giăng trùng điệp, ngút ngàn cỏ cây hoa lá và dòng sông uốn lượn..
Đến chùa Bích Động, qua tam quan, theo con đường chính đạo, du khách sẽ vào chùa Hạ, nằm ngay dưới chân núi. Chùa Hạ được dựng cách mặt đất 2 m, theo kiến trúc hai tầng tám mái, mái vút cong hình đuôi chim phượng và mái đao truyền thống. Ngôi chùa in dấu ấn thâm trầm, cổ kính của thời gian trên những tượng đá, văn bia, cây cối…

Chùa Hạ thờ Tam Bảo, thờ Phật và 3 vị sư tổ Trí Kiên, Trí Thể, Trí Tâm - những vị sư có công lớn trong việc xây dựng và trùng tu ngôi chùa. Ngay giữa chính điện là bức đại tự “Mạo cổ thần thanh”, nghĩa là chùa ở đây có tiếng vang thanh bạch và cổ kính từ xa xưa. Qua chùa Hạ, du khách tiếp tục lên đến chùa Trung. Đường lên chùa Trung toả rợp bóng mát của những cây thị cổ thụ, càng tạo nên sự mênh mông, thanh tịnh cho ngôi chùa, nhất là khi mùa thị chín, mùi thơm lan toả khắp không gian.

Ngay trên nóc chùa Trung là hai Hán tự Bích Động, đây là bút tích của quan Đại tư đồ Nguyễn Nghiêm, cha của Đại thi hào Nguyễn Du viết năm 1774 theo lệnh của chúa Trịnh Sâm. Chùa Trung được dựng theo mô hình chùa động khá phổ biến, toàn khu động cạn ôm gọn lấy mái chùa và điện thờ Mẫu. Mái chùa hiện ra với dòng chữ Hán “Già Lam thần đại hùng bảo điện Nam thiên tổ” nghĩa là tất cả các vị sư tổ ở trời Nam này đều xuất phát từ Bích Động ra đi.

Khu điện chính chùa Trung là các ban thờ Phật với dòng Đại tự “Linh Sơn phật hội”. Bên phải chùa Trung có một lối đi dẫn lên động Tối. Đi lên 20 bậc đá, du khách bắt gặp một quả chuông đồng và cầu giải oan thiên tạo. Tương truyền, những ai có oan ức trong lòng, qua cầu giải oan và thỉnh 3 tiếng chuông thì sẽ được giải thoát. Động Tối còn là nơi đặt công binh xưởng Phan Đình Phùng để sản xuất vũ khí phục vụ chiến đấu thời kháng chiến chống Pháp.
Nhũ đá ở động Tối không hổ danh với lời đề tặng “Nam thiên đệ nhị động” của người xưa. Tầng tầng, lớp lớp nhũ xếp chồng lên nhau trong không gian huyền ảo sáng tối và kỳ diệu. Nhũ đá phong trầm biến thiên từ nước và đá núi hàng nghìn hàng vạn năm óng ánh như dát bạc, được nhân thế thổi hồn thành những huyền thoại. Trong động Tối, ngoài thờ Phật còn có ngách riêng thờ Mẫu Thượng Ngàn, có nhiều nhũ đá hình cá voi, hình rùa, hình mỏ đại bàng trông rất hấp dẫn và bệ thờ Quan âm Bồ tát.

Bước ra khỏi động Tối, lên khoảng 30 bậc đá nữa du khách đến được chùa Thượng, có nét khác biệt là quay mặt về hướng Đông (nên còn được gọi là chùa Đông). Chùa Thượng có quy mô nhỏ nhất, duy chỉ thờ tượng Phật Bà Quan âm. Hai bên chùa là miếu thờ Sơn thần và Thổ địa. Từ chùa, phóng tầm mắt ra xa, du khách sẽ được chiêm ngưỡng cảnh sắc thanh bình, yên ả của làng quê, thấy được nét đẹp của sơn thanh thuỷ tú mà thiên nhiên ưu ái cho đất và người Ninh Bình.

. Nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình) – Công trình kiến trúc độc đáo
Từ thành phố Ninh Bình, đi về phía Đông Nam, dọc theo Quốc lộ 10 khoảng 28km, du khách sẽ đến được với Nhà thờ đá Phát Diệm (thuộc thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình).

Đây là một công trình kiến trúc độc đáo và đặc sắc, có sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật châu Âu và Đông Á. Nhà thờ được xây dựng chủ yếu bằng đá trong thời gian khá dài, từ năm 1875 đến 1899.

Toàn bộ diện tích của khu nhà thờ đá rộng 30.000m². Trên nền có 11 công trình được xây cất, bố trí hợp lý, tạo thành một cảnh quan đẹp mắt. Đi vào khu nhà thờ từ hướng Nam, sau hồ nước là một khoảng sân rộng rãi, thoáng đãng. Từ đây, du khách có thể quan sát tổng thể diện mạo của toà Phương Đình, được làm toàn bằng đá, có chiều dài 24m, chiều rộng 17m, chiều cao 25m.

Cả 3 tầng Phương Đình đều được xây dựng bằng những phiến đá, có phiến nặng hàng tấn. Đi qua Phương Đình, du khách bước vào nhà thờ lớn đồ sộ, xây dựng năm 1891, có 5 lối vào làm bằng đá, trạm trổ tinh tế, điêu luyện với các hoa văn, họa tiết ấn tượng. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, được dựng bởi 6 hàng cột gỗ lim, trong đó có 2 hàng cột ở giữa cao 11m, chu vi mỗi cột là 2,35m, nặng 7 tấn, đều làm bằng nguyên một thân cây lim.

Nằm song song hai bên nhà thờ Lớn, có 4 nhà thờ nhỏ đăng đối nhau là nhà thờ Thánh Rôcô, nhà thờ Thánh Giuse, nhà thờ Trái tim Đức Mẹ và nhà thờ Thánh Pêrô. Mỗi nhà thờ là một tác phẩm kiến trúc mỹ thuật mang nét riêng vốn có.

Điểm nhấn trong quần thể nhà thờ Phát Diệm chính là nhà thờ Trái tim Đức Mẹ, quen gọi là nhà thờ Đá, được xây dựng hoàn toàn bằng đá, từ nền, tường, chấn song, cột, xà, các bức phù điêu…

Lối kiến trúc này chỉ có duy nhất ở Việt Nam và hiếm gặp trên thế giới. Chính vì lẽ đó, từ trước đến nay người ta đã lấy tên gọi của nhà thờ Đá để đặt gọi chung cho cả khu nhà thờ xứ Phát Diệm.
<st>

Ngoài ra, ở Ninh Bình còn có các địa điểm du lịch nổi tiếng: Cố đô Hoa Lư, vườn quốc gia Cúc Phương … là những địa điểm làm nên sự đặc sắc cho dnah lam tháng cảnh Ninh Bình.
 
F

food2011

ai giúp mình làm đề này vs:
thuyết minh về sông huêong

Sông Hương có hai nguồn chính và đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn. Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu.
Sông Hương rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Con sông với sắc xanh lung linh, trong trẻo như một viên ngọc dưới ánh mặt trời. Nó từng là nguồn cảm xúc của bao thế hệ du khách khi họ đi thuyền dọc theo sông Hương để nhìn ngắm phong cảnh nên thơ và lắng nghe những điệu ca Huế truyền thống trong đêm tĩnh mịch.
Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, thápđền đài... ánh phản chiếu của chúng trên dòng nước khiến con sông thậm chí còn mang thêm nhiều chất thơ và tính nhạc. Nhiều người luôn gắn liền sự thanh bình, thanh lịch và cảnh vật lặng lẽ của Huế với dòng Sông Hương.
Theo các sách cổ, trước khi mang tên sông Hương, con sông này tuỳ theo thời gian có những tên khác nhau.
Sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (1435), viết là sông Linh.
Sách "Ô châu cận lục" do Dương Văn An nhuận sắc vào năm 1555, viết sông cái Kim Trà (Kim Trà đại giang).
Sách "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn gọi là sông Hương Trà (Hương Trà nguyên).
Nhiều tài liệu khác cho biết cho biết sông Hương đã từng mang tên sông Lô Dung, sông Dinh, sông Yên Lục.
Từ năm 1469 dưới thời Lê Thánh Tông, Kim Trà là tên của một huyện ở phủ Triệu Phong thuộc Thừa tuyên Thuận Hoá. Đến khi Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hoá (1558), huyện Kim Trà được đổi tên là Hương Trà
Sông Hương và núi Ngự Bình được nhắc đến trong lời bài hát Ai ra xứ Huế sáng tác bởi nhạc sỹ Duy Khánh:
Ai ra xứ Huế thì raAi về là về núi NgựAi về là về sông HươngNước sông Hương còn vương chưa cạnChim núi Ngự tìm bạn bay vềNgười tình quê ơi người tình quê thương nhớ xin trở vềNhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì viết
Sông Hương hóa rượu ta đến uốngTa tỉnh, đền đài ngả nghiêng say ...Hằng năm, vào mùa lụt, nước sông Hương dâng cao có thể gây ngập úng cho thành phố Huế và các vùng phụ cận. Nhưng nhờ phù sa sau mỗi trận lụt, các miệt vườn như Nguyệt Biểu với đặc sản là quả Thanh Trà; Kim Long với măng cụt, các triền ven sông với bắp... sẽ tốt tươi hơn.
 
C

chunhocchuot97

aj gjup' minh` lam` bai` van thuyet' minh ve` bai~ bien? cua? tung`vs
mjnh` cam? on nhiu` nhiu`
 
Top Bottom