Một  trong những cây bút xuất sắc có mặt ngay từ lúc ban đầu là Thế Lữ. Rất  nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ Mới  mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ Rừng. Ở trong Nhớ Rừng , Thế Lữ đã thể  hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết  qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của  những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
 
 Trong những ngày đầu mới ra đời, phong  trào Thơ Mới đã có những sự phát triển trong cả phong cách và nội dung.  Trên các chặng đường phát triển, Thơ Mới đã dần giải phóng khỏi tính  quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính “phi ngã” của thi ca cổ  điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính những  giác quan,   những cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ  nét trong thơ. Ở đó là sự vươn lên của những cảm xúc mãnh liệt của con  người vượt thoát khỏi thực tế khách quan. Chính vì vậy Thơ Mới có khuynh  hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực  trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt  trước thực tại tầm thường  giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.
 
 Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế  Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời  con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng  lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa.  Tất cả hình ảnh đuợc nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh  cuộc sống của con hổ. Thực tế là con hổ đang bị giam hãm trong một cũi  sắt và nó cảm nhận cuộc sống của mình chứa đựng những u uất ngao ngán  trong cảnh giam hãm tù túng, những cảnh “tầm thường giả dối” ở vườn bách  thú. Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ oanh liệt nơi núi  rừng hùng vĩ. Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa thực  tại và dĩ vãng.
 
 Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể  của muôn loài, nhưng nay vì sa cơ mà phải chịu sống cảnh “nhục nhằn”  trong cũi sắt. Không gian cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu  hẹp và từ nay bị biến thành một “trò lạ mắt”, một “thứ đồ chơi” trong  con mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị nhạt  nhẽo bởi  đang phải sống nơi không tương xứng với tư cách của một vị  chúa sơn lâm.
 
 Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
 Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
 
 Hổ đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có  cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời  gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào  thì kẻ thuộc “giống hùm thiêng” cũng luôn biết thân phận thực sự của  mình là một vị chúa. Ông ba – mươi đã tỏ thái độ khinh mạn, coi thường  trước những sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thật sự của thiên nhiên của  những con người “ngạo mạn ngẩn ngơ” chỉ biết “giương mắt bé giễu oai  linh rừng thẳm”. Chán nản làm sao cảnh phải chịu sống ngang bầy cùng với  “bọn gấu dở hơi”, với “cặp báo chuồng bên vô tư lự”! Làm sao chịu được  cảnh sống cam chịu chấp nhận số phận của những “người bạn” đồng cảnh  ngộ. Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén để làm nên những hờn căm chất  chứa trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng  thương ấy, hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình:
 
 Ta sống  mãi trong tình thương nỗi nhớ
 Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa 
 Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
 Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
 Với khi thét khúc trường ca dữ dội…
 
 Con hổ đã tiếc nhớ về thuở “hống hách”  nơi “bóng cả cây già”. Đó là nỗi nhớ đau đáu về nơi rừng thẳm. Nhớ rừng  là tiếc nhớ tự do, nhớ về “thời oanh liệt”, là nhớ về cái cao cả, chân  thực, tự nhiên . Ở chốn nước non hùng vĩ ấy, con hổ đang ngự trị một sức  mạnh giữa cuộc đời. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng  đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Những  gì nó cần phải làm là khiến mọi vật đều phải nể sợ thuần phục. Ở đó, con  hổ đã hiện lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ  đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:
 
 Ta bước  chân lên dõng dạc đường hoàng
 Lượn tấmthân như sóng cuộn nhịp nhàng
 Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc 
 Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
 Là khiến cho mọi vật phải im hơi
 Ta biết ta chúa tể của muôn loài 
 
 
 Vẻ đẹp thật sự của hổ là đây! Từng  bước chân, từng tấm thân ,từng ánh mắt đã khơi gợi lên một vẻ vừa dũng  mãnh uy nghi vừa nhẹ nhàng uyển chuyển. Trong từng hành động, loài mãnh  thú kia đã cho mọi vật thấy được sức mạnh tuyệt đỉnh khiến cho tất cả  phải “im hơi”. Cuộc sống tự do giữa chốn rừng thẳm mãi mãi là một điều  rất cao quý. Ở đó hổ thực sự được hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên  nhiên đã dành cho. Đó là những thời khắc mãnh hổ đang “say mồi”, đang  ngắm sự đổi thay của “giang sơn”, đang say giấc và đang muốn chiếm lấy  riêng “phần bí mật” . Nó đã được thoải mái trong chính giang sơn của  mình  và khẳng định giá trị thật sự của cuộc sống với những khung cảnh  lộng lẫy tươi đẹp nên thơ và cũng đầy sức quyến rũ. Nhưng bây giờ , tất  cả cũng chỉ còn là những hoài niệm thuộc về quá khứ. Hổù chẳng bao giờ  còn được chứng kiến những cảnh “đêm vàng bên bờ suối”, được nhìn thấy  cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, được nghe thấy tiếng chim  ca, được đắm mình trong cảnh “bình minh cây xanh nắng gội”, được đợi chờ  “chết mảnh mặt trời” của những buồi chiều “lênh láng máu sau rừng”.  Những cảnh ấy chỉ để lại trong con hổ những cảm giác tiếc nuối, ngậm  ngùi trong sự xúc động mạnh mẽ, dồn dập của những câu hỏi đau đớn xót  xa. Nỗi nhớ miên man tuôn trào với cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép  lại giấc mơ huy hoàng rong một tiếng than thảm thiết:
 
 Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu
 
 Được sống lại với những ký ức  tươi  đẹp ở chốn núi rừng hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thừơng giả dối của  những khung cảnh nơi nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của hổ là  những cảnh “không đời nào thay đổi”, những cảnh đơn điệu nhàm chán do  con ngưới sửa sang và cố đòi “bắt chước”. Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái  độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của  những  sự giả dối nhân tạo. Đó không phải là nơi xứng đáng để sống của  một đấng thống lĩnh. Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó  cũng chỉ là những  “dải nước đen giả suối chẳng thông dòng” len dưới những “mô gò thấp kém”  , là những “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” không có gì là “bí  hiểm” “hoang vu”. Những cảnh sống ngụy tạo ấy khiến cho hổ càng tiếc nhớ  chốn “ngàn năm cao cả âm u”.
 
 Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm  uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả  tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng  qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng.  Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói  đến chốn “nước non hùng vĩ”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày  tháng tươi đẹp, thoả chí  vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh  thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy  nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc  mộng ngàn to lớn”. Vị  chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài  niệm của những vẻ đẹp  một đi không trở lại:
 
 Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
 Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi
 
 Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng  thanh niên Thế Lữ. : mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó  cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như  trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được  sống chính là mình.
 
 Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi  buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi  vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng  bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư  sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.
 
 Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh  liệt, Nhớ Rừng đã lan toả một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ  đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế  Lữ  là đã thể hiện một trí tuởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ  trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình.  Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình  cảm yêu nước của người dân thuở ấy.
ST