Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, người cũng là một thi nhân có tài. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy phải bận bề trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn có thể sáng tác ra những vần thơ tuyện vời, trong đó có tuyện tác về cảnh trăng xuân: “Nguyên tiêu”:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Bài thơ được Bác sáng tác nguyên văn theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một thể thơ nổi tiếng của thời Đường ở Trung Quốc. Sau này bài thơ được nhà thơ Xuân Thủy dịch và mang tên là “Rằm tháng giêng”. Bài thơ được dịch theo thể thơ lục bát, vốn là thể thơ cổ truyền của dân tộc Việt Nam:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Song xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Mở đầu bài thơ là cảnh trăng xuân tuyện đẹp ở chiến khu Việt Bắc:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Song xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Hình ảnh “trăng” lại xuất hiện trong hai câu thơ này. Trăng là người bạn tri âm tri kỉ của Bác, vì thế, trăng trở đi trở lại trong thơ của Bác. Ngay cả trong ngục tù, hình ảnh “ánh trăng” vẫn được Bác sử dụng:
Trong tù không rượu củng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
( Ngắm trăng - Nhật kí trong tù )
Từ “xuân” được điệp lại hai lần để chỉ sự khì thế, vui tươi của mọi vật ở đây. Sông xuân, nước xuân, trời xuân và mọi vật đang hòa quyện vào nhau, cùng nhau căng tràn sức xuân. Một không gian bao lt, bát ngát tràn ngập ánh trăng và sức xuân.
Nếu ở hai câu đầu là cảnh thiên nhiên, cảnh trăng xuân ở chiến khu Việt Bắc thì ở hai câu thơ cuối, hình ảnh Bác Hồ hiện ra trong tư thế một người chiến sĩ bận lo việc nước, việc quân:
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Bác phải họp tổng kết việc kháng chiến trên dòng song trăng. Tuy là một cuộc họp quan trọng nhưng Bác vẫn không căng thẳng, vẫn ung dung, tự tại để cảm nhận nên cảnh trăng xuân tuyệt đẹp ở Việt Bắc vào đêm khuya:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Cuộc họp kết thúc vào lúc nửa đêm, khi về, chiếc thuyền nhỏ lướt nhẹ trên dòng song trăng, ánh trăng ngập tràn lòng thuyền. Một không gian bao la ngập tràn ánh trăng. Trước hoàn cảnh khó khăn như vậy mà Bác vẫn có thể sáng tác ra những vần thơ tuyệt cú như thế đủ để thấy phong thào ung dung, lạc quan của Bác.
Bài thơ vừa mang tính cổ điển, vừa mang tình thời đại, tính lịch sử. Tuy chỉ có bốn câu, mỗi câu bảy chữ nhưng bài thơ đã thể hiện hết tình cảm với thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng, phong thài ung dung, lạc quan, cốt cách thi sĩ lồng trong tâm thế chiến sĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.
Vào một đêm rằm tháng giêng năm Mậu Tý 1948, trên đường trở về sau khi dự Hội nghị BCH Trung ương Đảng mởrộng ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh cảm hứng sáng tác bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng).Phiên âm bài thơ:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Nhà thơ Xuân Thuỷ kể rằng, sau khi đọc xong bài thơ, Bác nói: Trong bài thơ Bác có nhắc đến tên chú Xuân Thuỷ, vậy chú Xuân Thuỷ hãy dịch đi. Và nhà thơ Xuân Thuỷ đã dịch như sau: “Rằm xuân lồng lộng trăng soi/ Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân/ Giữa dòng bàn bạc việc quân/ Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Hai câu đầu bài thơ mở ra trước mắt người đọc một đêm trăng xuân. Đó là đêm Nguyên tiêu (rằm tháng giêng), nguyệt chính viên (trăng vừa tròn). Không gian khắp nơi bàng bạc sắc xuân, hương xuân và tình xuân. Tứ thơ đẹp bay vút từ mặt nước của dòng sông xuân lên tận trời xuân để toả ra trong một không gian đầy trăng. Trăng và xuân hoà quyện với nhau dường như không còn phân biệt được nữa. Đến câu thứ ba, người đọc tưởng chừng như con thuyền lạc vào nơi sâu thẳm của dòng sông đầy khói sóng (yên ba thâm xứ) thì ý thơ đột ngột hạ xuống ba chữ “đàm quân sự” (bàn việc quân). Thì ra con thuyền chở Bác cùng các đồng chí của ta là để bàn việc kháng chiến. Sau dấu lặng của ba chữ này, hơi thơ bất ngờ chuyển hướng và ngưng đọng lại ở cuối bài thơ bằng một hình ảnh lộng lẫy đầy ánh trăng: nguyệt mãn thuyền (trăng đầy thuyền). Một con thuyền đầy trăng. Hình ảnh thơ không mới nhưng đấy lại là một sáng tạo mang tính thẩm mĩ.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc xong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt là phong vị của Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, lại có sông xuân, nước xuân, trời xuân và có cả khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ, man mác; không gian bao la, yên tĩnh; thiên nhiên hữu tình, ấm áp…, chỉ khác là thi nhân không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú văn chương mà chỉ “đàm quân sự”. Đây không phải là lần đầu tiên cái cốt cách của “nhà hiền triết phương Đông” toả sáng trong tâm hồncủa Bác. Trong lần “Đi thuyền trên sông Đáy” Bác cũng cảm nhận được “Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng theo”một cách hữu tình. Bài thơ làm ta liên tưởng đến câu thơ của Vương Bột đời Đường “Lạc hà dữ cô vụ tề phi/ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Cánh cò bay với ráng pha/ Sông thu cùng với trời xa một màu) hay câu thơ của Trương Kế “Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” (Thuyền ai đậu bến Cô Tô/Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn). Có thể nói, sự gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với thơ Đường đã tạo nên một vẻ đẹp riêng trong thơ Bác không dễ lẫn vào đâu được.
Cảm thức bài thơ, tôi nghĩ đến một hồn thơ tinh tế nhạy cảm trước thiên nhiên và hơn thế là một trí tuệ mẫn tiệp Hồ Chí Minh. Điều này được thể hiện qua chiều sâu của cảm xúc và tư duy lôgic nội tại của bài thơ, nhất là ở câu mở đầu và câu kết thúc. Ta thử hình dung con thuyền chở đầy trăng trong đêm rằm tháng giêng trở về vào lúc nửa đêm. Chỉ cần cái khoảnh khắc thời gian (nguyên tiêu, dạ bán) chệch đi, hoặc giả con thuyền chao nghiêng dù chỉ một chút thôi cũng đủ cho con thuyền trở nên lạc lõng, không còn đầy trăng nữa. Bởi chỉ có thể là trăng vừa tròn (nguyệt chính viên) vào đúng dạ bán (nửa đêm) của rằm tháng giêng thì trăng mới mãn thuyền (đầy thuyền). Sự kết hợp chữ viên ở câu thứ nhất và chữ mãn ở câu cuối đã tạo nên vầng trăng viên mãn (tròn đầy) của đêm rằm tháng giêng. Đó cũng là sự viên mãn của một hồn thơ đang thăng hoa giữa đất trời quê hương. Và, dường như con thuyền chở đầy ánh trăng kia cũng là con thuyền kháng chiến đang chở đầy những chiến công và niềm vui thắng trận. Phải chăng đó là ánh sáng của tinh thần hiện đại trong thơ Bác.
Càng đọc thơ Người, ta càng cảm được vẻ đẹp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại, giữa thi sĩ và chiến sĩ, giữa truyền thống và cách mạng và hơn hết là vẻ đẹp trí tuệ trong chiều sâu cảm xúc của thơ Hồ Chí Minh. Xin mượn những câu thơ của Hoàng Trung Thông để thay cho lời kết
Đọc thơ Bác
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn toả rạng mái đầu xanh,
Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.