[văn 7 ]Phát biểu cảm nghĩ

P

pokemon_011


Qua đèo ngang của bà huyện thanh quan là một tác phẩm trữ tình xuất sắc. qua bài thơ bà đã bộc lộ được hết tâm tư thầm kín trong lòng mình. các câu thơ :
bước tới đèo ngang bóng xế tà
cỏ cây chen đá, lá chen hoa
lom khom dưới núi tiều vài chú
lác đác bên sông chợ mấy nhà
bà đã nói lên tâm trạng của người lữ thứ, buồn cô đơn.
Và đặt biệt là câu thơ cuối đã nói rõ lên sự cô quạnh của bà khi chỉ ở một mình nơi khỉ ho cò gáy:
một mảnh tình riêng ta với ta
và đặt biệt hơn nữa là biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong từ: tiều vài chú, chợ mấy nhà đã tạo nên một sự lắng đọng trong lòng người đọc một cảm giác cô đơn não nề. những từ ngữ bình dị làm cho bài thơ thật cảm động.
qua những phân tích trên mình cho rằng bài thơ là một kiệt tác trong thơ văn việt nam và bà là một nhà thơ vô cùng xuất suốt sắc
 
R

rinkirigimine

Qua đèo ngang

QUA ĐÈO NGANG là một tác phẩm trữ tình hay của BÀ HUYỆN THANH QUAN
QUA ĐÈO NGANG Là bài thơ thất ngôn bát cú đường luật tuyệt bút miêu tả cảnh TN vào lúc chiều tà bóng xế
Cảnh tượng Đèo Ngang qua sự miêu tả của Bà Huyện Thanh Quan được miêu tả quan sát từ nhìu góc độ #nhau
bức tranh cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đơn sơ, nét chủ đạo là một không gian hoang vắng, thời gianh tàn bóng, cảm giác của lữ thứ trên con đường tha hương đượm nỗi buồn cô liêu và tâm trạng nhớ nhà bâng khuâng.
THUI TỚ MỎI TAY LẮM TỚ KUN VÍT NỮA ĐÂU
 
P

p3b3o_091098

DÀn ý
CẢM NGHĨ VỀ BÀI "QUA ĐÈO NGANG"
mình chỉ làm dàn bài thui!
A) MỞ BÀI:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
- Nội dung bài thơ.
B) THÂN BÀI:
- Thơ của bà hay nói về hoàng hôn, giọng điệu du hương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp & lưu luyến.
- Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc đâng trào, tác giả đã sáng tác nên thơ " Qua Đèo Ngang".
- Đây là lần đầu tiên, tác giả bước tới Đèo Ngang đứng dưới chân con đèo.
*) 2 câu đề: "cỏ cây chen đá, lá chen hoa"( điểm nhìn gần)
- Nơi đây chỉ có hoa rừng and cỏ dại. Cảnh vật haong sơ đến não lòng.
*) 2 câu thực:
- BP nghệ thuật đối & đảo ngữ sử dụng rất điêu luyện & ấn tượng, âm điệu du hương khi đọc lên ta thấy thật thú vị.
- Điểm nhìn của tác giả đã thay đổi, đứng từ trên cao nhìn xuống & nhìn ra xa. Thế giới con người ở đây là "vài chú tiều". Hoạt động cảu các chú đang "lom khom" vác củi xuống núi. Cảnh vật nơi đây chỉ có mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác.
=> Như vậy cảnh & người đều ít ỏi, cảnh thì hoang vắng, heo hút, nơi con đèo hoang sơ lúc bóng xế tà.
*) 2 câu luận:
- 2 câu thơ tiếp theo tác giả tả âm thanh tiếng chim rừng gọi là bầy lúc hoàng hôn. Điểm âm "quốc quốc, gia gia" tạo âm hương du dương cảu khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người. Tác giả đã lấy cái đông của tiếng chim rừng để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm của Đèo Ngang.
- kà 1 nữ sĩ nên nỗi nhớ nước, nhớ khinh kì Thăng long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làn Nghi Tàn thân thuộc ko thể nào kể xiết.
*) 2 câu kết:
- 4 chữ "dừng chân đứng lại" thể hiện niềm xúc động đến bồn chồn của tác giả. Tác giả nhìn xen ra nhìn gần nhìn 4 phía thấy vô cung buồn đau "ta với ta".
- Tác giả đã lấy cái bao la vô tận của vũ trụ tương phản với cái nhỏ bé để tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người khách trên đỉnh Đèo Ngang lúc chiều tà, tâm trạng nhớ quê, nhà của nữ sĩ Thanh Quan.
C) KẾT BÀI:
"Qua Đèo Ngang" & bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt cú. Cảnh sắc Đèo Ngang hữu tình thấm 1 nõi buồn man mác. Cảm hứng thiên nhiên chan hòa với tình yêu đất nước, quê hương đậm đà qua 1 hồn thơ trang nhã. E rất yêu thích bài thơ này. Ngày nay & mai sau bài thơ vẫn là lời tâm sự của biết bao người.
Bài làm
Qua đèo ngang

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”.

Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách - nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phứp đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước.
 
C

conan99

Đã có dịp tôi thực hiện chuyến xuyên Việt, đó là năm tôi học cấp 2, một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi nửa tháng sau cô giáo dạy bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Tôi đứng trước lớp phát biểu thao thao bất tuyệt về cảnh vật Đèo Ngang, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình như thế nào, trên núi nhìn xuống ra sao và so sánh cảnh ngoài đời thực và trong thơ. Lần đó tôi được chín điểm. Ấn tượng khó quên về bài Qua Đèo Ngang của tôi là thế, đó cũng là bài thơ tôi tập trung tìm hiểu nhiều để thi học sinh giỏi tỉnh môn Văn năm đó.

Đến bây giờ gần 10 năm, nhưng có lẽ Qua Đèo Ngang cũng sẽ nằm mãi trong lòng tôi, không sao có thể xóa bỏ nó, và cũng chưa bao giờ tôi có ý định xóa bỏ bài thơ hay và đẹp đó trong đầu. Tới bây giờ, khi được học môn Thi pháp học, nhận được đề tài Thi pháp lời văn nghệ thuật tôi nghĩ ngay đến Qua Đèo Ngang, không hiểu sao bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại xuất hiện ngay lúc này, có lẽ lời trong bài thơ quá hay khiến nó ám ảnh tôi chăng?

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, luật thi rất là chặc chẽ, có thể thấy được qua sơ đồ sau:

T T B B T T B

T B B T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B B T B

Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy thi luật bài thơ rất chặc chẽ, ở Qua Đèo Ngang có 29 thanh bằng và 27 thanh trắc, nó làm nên tính nhẹ nhàng, ru hồn, êm ái và đễ đi vào lòng người. Tôi có đọc được một nhận xét cho Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan "Ở tất cả những bài thơ viết bằng luật Đường của bà, niêm luật đều chặt chẽ mà không có cảm giác gò bó, xếp đặt, câu thơ trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu. Bà là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nước ta".(Nguyễn Lộc - Từ điển Văn học).

Đây cũng là bài thơ đại diện cho tính nghiêm ngặt của lối thơ Đường luật, chặc chẽ nhưng có hồn, không thô kệch, cứng cáp. Câu khởi đầu là câu nhập vận, khởi đầu bằng thanh trắc, câu nhập vận T T / B B / T T B đúng chuẩn trong thơ Đường. Vần gieo ở chữ cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 (chỉ có vần bằng). … xế tà.… chen hoa.… chợ mấy nhà.… cái gia gia. … ta với ta

Bài thơ được viết bằng chữ Nôm nên đọc ra dễ hiểu, toàn những từ ngữ giản dị nhưng không tầm thường, Trời sắp tối “bóng tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang lúc mặt trời sắp xuống núi. Có chen chúc đó chứ, cỏ cây đang chen với đá, thế nhưng sao lại thấy buồn? Phải chăng do hai từ “xế tà” ở trên.

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Điệp từ "chen" ở câu thứ hai khiến ta hình dung cảnh vật bề bộn, ngổn ngang trong đá núi, tuy tươi tốt xum xuê song bao trùm vẫn là cảnh sắc um tùm, hoang dã. Ở hai câu sau nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Câu thơ tả cảnh chân thực khi Bà Huyện Thanh Quan đứng trên cao nhìn xuống, cảnh vật thu vào tầm mắt bà lúc này là gì? Chú tiều dưới núi và ở bên sông có một cái chợ nhỏ, lác đác, hiu quạnh. Giọng thơ sao nghe buồn, từ láy bà dùng để miêu tả cảnh vật cũng có gì mang lại cho người đọc cảm giác quạnh hiu “lom khom, lác đác” Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Phép đảo ngữ và nghệ thuật đối cùng với việc sử dụng từ láy có hiệu quả khắc hoạ cảnh thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ. Đứng từ trên cao nhìn xuống, những con người đã nhỏ, ở tư thế "lom khom" lại càng nhỏ bé hơn, lam lũ, tội nghiệp.. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà. Nghệ thuật dùng từ láy tượng thanh, đảo ngữ để diễn tả cuộc sống của con người thưa thớt, nhỏ nhoi. Hơn nữa bà còn sử dụng số từ “ vài-mấy” làm cho khung cảnh trở nên vắng vẻ. Cách gieo vần “hoa –tà –nhà” cũng khá ấn tượng. Hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

Bốn câu thơ đầu bà cho người đọc thấy được cảnh bà đang đi qua, vắng lặng và buồn. Có sự sống nhưng không sinh động, có cảnh, có hồn, có người nhưng không nhộn nhịp. Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình. Hai câu thơ đối nhau rất chặc chẽ, “Nhớ nước – thương nhà”

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

Để ý kĩ ta sẽ thấy tên của hai loài chim thật ra là tiếng Hán – Việt “quốc” có nghĩa là nước, “gia” có nghĩa là nhà. Con quốc quốc thì nhớ nước , cái gia gia thì thương nhà. Bà Huyện Thanh Quan rất tinh tế trong cách dùng từ ngữ, bà đã biết chọn lọc khi đem hai loài chim ấy vào thơ mình. Ta còn thấy nữ sĩ vận dụng các phép đối ở các câu 3 với câu 4; câu 5 với câu Ở câu 3 – 4: lom khom – lác đác; dưới núi – bên sông; tiều vài chú – chợ mấy nhà. Ở câu 5 – 6: nhớ nước – thương nhà; đau lòng – mỏi miệng; con quốc quốc – cái gia gia. Cùng với cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa : con quốc quốc mà cũng nhớ nước đau lòng, loài gia gia mà cũng thương nhà kêu mỏi miệng . Trong thơ ca, nghệ thuật này thường dùng để mang ý hàm ẩn . Đó ko phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim gia . Hay nói đúng hay đó chính là tiếng lòng của nhà thơ . Hai câu thơ trên bà đã trực tiếp tả tình, không giống những câu trước, mượn cảnh tả tình.Cái hoang vắng của cảnh vật thiên nhiên làm nền cho nỗi cô đơn của tâm hồn.

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước.

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Ba từ trời, non, nước làm cho người đọc một cảm giác trống trải, thiếu vắng đi hơi ấm con người, chỉ toàn là thiên nhiên tồn tại, lạnh lẽo hiu quạnh từ bên ngoài đi vào cõi lòng. Cụm từ "ta với ta" đối lập với "trời - non - nước". Một bên là cái bao la, bát ngát, trùng điệp của trời, non, nước, một bên là cái cô đơn của "mảnh tình riêng" không người chia sẻ. Trước cái mênh mông, vô cùng vô hạn của trời đất, tác giả cảm thấy mình vô cùng bé nhỏ, bà đứng lại để quay trở về với chính tâm tư của mình, đối diện với chính mình, cô đơn đến tuyệt đối. Nữ sĩ mang trong lòng một hoài niệm, một nỗi lòng không biết chia sẻ cùng ai. “Ta với ta” một cụm từ chỉ ba âm tiết nhưng đáng phải suy nghĩ nhiều, ở đây một mà là hai, hai nhưng lại là một, bà đang đứng một mình và đối điện với chính mình, ta là Bà Huyện Thanh Quan và ta kia cũng là bà, nghe từ “với” tưởng chừng như hai người, nhưng thật sự chỉ có bà đang ở đó cùng bà. Tâm hồn trống trải không biết tâm sự cùng ai. Có trời, non, nước nhưng tất cả như vô tri, không ai hiểu cho suy nghĩ của người nữ sĩ.

Ở bài Qua Đèo Ngang bà đã sử dụng rất nhiều động từ “bước tới”, “chen”, “nhớ”, “thương”, “dừng chân”…Tuy những từ ấy là động từ thì nó cũng không làm không gian động, đọc cả bài thơ ta thấy có cái gì đó tĩnh lặng và buồn. Lời văn mộc mạc, bình dân , sử dụng tiếng Nôm – ngôn ngữ dân tộc để sang tác nên được nhiều người yêu thích. Đọc những bài thơ chữ Hán tôi thấy khó hiểu, nhưng đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan tôi có cảm giác quen thuộc và dễ hiểu. Bà đã trau chuốc nhiều cho bài thơ, lựa chọn từ ngữ rất hợp lý, tôi khâm phục bà ở hay câu luận, chim quốc và chim gia cũng hàm ý cho nước và nhà. Ở đó loài chim cũng biết nhớ, biết thương, phải chăng tâm trạng bà nằm ở đó và cụm từ “ta với ta”.

Đọc kĩ bài thơ người đọc còn cảm nhận được sự thay đổi trong toàn bài, phần đề, thực đang tả cảnh thì qua phần luận bà lại tả tình, quay lại hai câu kết bà tiếp tục tả cảnh, tuy là thế nhưng nó không đột ngột mà rất nhẹ nhàng. Tâm hồn của nhà thơ xuyên suốt bài thơ và cuối cùng đúc kết lại ở câu cuối, nó như là câu kết luận : “Một mảnh tình riêng, ta với ta”. Tình mà một mảnh, nó không cân đo, đếm được, nhưng nghe từ “một mảnh” người đọc cảm nhận có vẻ nó không được nguyên vẹn mà chắp vá.

Thơ của Bà Huyện Thanh Quan chữ dùng rất khéo, chọn lọc, thích đáng, đối rất chỉnh, rất thần tình, ý hàm súc, lời trau chuốt, gọn, đẹp...Cho nên thơ bà rất được các nho gia xưa yêu chuộng, ngâm nga... Còn giới trẻ bây giờ đọc là nhớ, thơ bà dịu dàng, đầy nữ tính. Nhưng bên trong thì chí khí như một đấng nam nhi. Tâm sự u hoài được gửi gắm vào bức tranh phong cảnh bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, bà mượn cảnh để nói lên nỗi nhớ nhà khắc khoải, nỗi đau và sự xót thương một dĩ vãng đã mất. Bài thơ chỉ tám dòng nhưng chứa cả nỗi lòng của bà, đó là tình cảm của phận nữ nhi đối với đất nước, hoài niệm về quá khứ khi xưa, một triều Lê hưng thịnh. Lòng yêu nước sục sôi nhưng bằng ngòi bút tài hoa, bên ngoài toát lên nhẹ nhàng, đầy nữ tính, lời văn thanh tao nhưng bên trong sôi sục.

"Những bài thơ Nôm của bà truyền lại có ít, phần nhiều là thơ tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức, thường nghĩ tới nhà, tới nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện".
 
D

dbofmylove

tớ chỉ nghĩ được cái mở bài này thôi bạn xem có không nghe :
Mỗi một tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng . Có tác phẩm vừa cất tiếng chào đời đã chết yểu đáng thương . Có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời rồi bị độc giả quên lãng cùng dòng chảy thời gian . nhưng cũng có những bài thơ , quyển truyện có một sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc , có một sức hút lạ kì . bài thơ " Qua đèo ngang " của bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ đặc sắc , để lại trong lòng mỗi chúng ta nhiều rung cảm - ấn tượng
 
M

motdieunhonhoi

ẢM NGHĨ VỀ BÀI "QUA ĐÈO NGANG"
mình chỉ làm dàn bài thui!
A) MỞ BÀI:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
- Nội dung bài thơ.
B) THÂN BÀI:
- Thơ của bà hay nói về hoàng hôn, giọng điệu du hương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp & lưu luyến.
- Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc đâng trào, tác giả đã sáng tác nên thơ " Qua Đèo Ngang".
- Đây là lần đầu tiên, tác giả bước tới Đèo Ngang đứng dưới chân con đèo.
*) 2 câu đề: "cỏ cây chen đá, lá chen hoa"( điểm nhìn gần)
- Nơi đây chỉ có hoa rừng and cỏ dại. Cảnh vật haong sơ đến não lòng.
*) 2 câu thực:
- BP nghệ thuật đối & đảo ngữ sử dụng rất điêu luyện & ấn tượng, âm điệu du hương khi đọc lên ta thấy thật thú vị.
- Điểm nhìn của tác giả đã thay đổi, đứng từ trên cao nhìn xuống & nhìn ra xa. Thế giới con người ở đây là "vài chú tiều". Hoạt động cảu các chú đang "lom khom" vác củi xuống núi. Cảnh vật nơi đây chỉ có mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác.
=> Như vậy cảnh & người đều ít ỏi, cảnh thì hoang vắng, heo hút, nơi con đèo hoang sơ lúc bóng xế tà.
*) 2 câu luận:
- 2 câu thơ tiếp theo tác giả tả âm thanh tiếng chim rừng gọi là bầy lúc hoàng hôn. Điểm âm "quốc quốc, gia gia" tạo âm hương du dương cảu khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người. Tác giả đã lấy cái đông của tiếng chim rừng để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm của Đèo Ngang.
- kà 1 nữ sĩ nên nỗi nhớ nước, nhớ khinh kì Thăng long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làn Nghi Tàn thân thuộc ko thể nào kể xiết.
*) 2 câu kết:
- 4 chữ "dừng chân đứng lại" thể hiện niềm xúc động đến bồn chồn của tác giả. Tác giả nhìn xen ra nhìn gần nhìn 4 phía thấy vô cung buồn đau "ta với ta".
- Tác giả đã lấy cái bao la vô tận của vũ trụ tương phản với cái nhỏ bé để tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người khách trên đỉnh Đèo Ngang lúc chiều tà, tâm trạng nhớ quê, nhà của nữ sĩ Thanh Quan.
C) KẾT BÀI:
"Qua Đèo Ngang" & bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt cú. Cảnh sắc Đèo Ngang hữu tình thấm 1 nõi buồn man mác. Cảm hứng thiên nhiên chan hòa với tình yêu đất nước, quê hương đậm đà qua 1 hồn thơ trang nhã. E rất yêu thích bài thơ naykf. Ngày nay & mai sau bài thơ vẫn là lời tâm sự của biết bao người.
NẾU ĐƯỢC THÌ thank NHA! đừng quên nha.
 
Top Bottom