[văn 7 ]Cảm thụ văn học: Qua đèo Ngang

T

tranthuyluc

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Tình hình là mình phải viết bải cảm thụ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Viết xong rồi nhưng sợ cô bảo đây không phải là bài cảm thụ
Các bạn cho ý kiến nhé. Tks trước.
Qua bài thơ “Qua đèo Ngang”, Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng nghệ thuật đối cùng nghệ thuật đảo ngữ để gợi lên cảnh thiên nhiên đèo Ngang đồng thời bộc lộ được nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của mình. Bốn câu thơ đầu, tác giả gợi lên cảnh thiên nhiên đèo Ngang hiện lên hoang sơ heo hút, cuộc sống vắng vẻ, không gợi được cảm giác vui cho con người trong tâm trạng cô đơn. Đầu tiên, ở hai câu đề, khi tác giả mới bước tới Ngang lúc vào buổi chiều tà, đứng dưới đèo thấy cảnh vật hoang sơ, heo hút, cây cối phải chen chúc nhau mới có thể tồn tại. Sau đó, ở hai câu thực, khi điểm nhìn thay đổi, đứng trên cao ngắm xuống dưới và ra xa, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để gợi lên sự ấn tượng, thấy những người tiều phu vất vả phải còng lưng gánh củi, xa xa bên sông chỉ thưa thớt vài căn nhà. Bốn câu thơ cuối, tâm trạng của tác giả được bộc lộ gợi lên niềm hoài cổ và nỗi buồn cô đơn. Ở hai câu luận, khi tác giả nghe tiếng chim quốc và tiếng chim đa đa kêu, lòng lại xao xuyến nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc mà không thể nào xiết! Cuối cùng, ở hai câu kết, tác giả sử dụng hình ảnh đối, lấy cái bao la, mênh mông tương phản với cái nhỏ bé gợi lên nỗi buồn cô đơn, hướng vào nội tâm con người. Qua đó, thấy được cảnh thiên nhiên đèo Ngang và tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan.
P/s: vì đầu bài là viết đoạn văn nên mình viết ngắn thế thui, các bạn xem xét nhé!!!
 
Last edited by a moderator:
C

chankquetdat

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh quan:
Qua đèo ngang

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”.

Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách - nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phứp đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước.
__________________
 
C

culcul99

bài viết của bạn NGUYỆT ở CỔ ĐÔ
bài này mình tự làm k như mấy cưng chép văn mẫu nhé chỉ ngu như bọn mày mới làm thế giúp người ta thế à ?
qua dèo ngang là bài thơ nổi tiếng của bà hyen thanh quan tên thật là nguyen thị hinh .mot nữ sĩ quê ở nghi tàm nơi trống dâu dệt lụa nổ tiếng đất kinh kì thăng long.bà sinh ra tro(trong) một gia đinh dòng dõi quý tộc ,đc biêt đến là ng phụ nữ đoan trang ,hiền thục.vì vậy bà đc mời đến kinh thành huế nhận chức cung chung giáo tập để dạy cho các cung nữ tro cung.trên đg vào phú xuân nhận chức bà đã sáng tác bai thơ qua đèo ngang.bài thơ là cảnh đèo ngang tráng lệ ,hùng vĩ của con dèo vắng lặng ít sự sống.
hai câu đề.câu 1 là câu phá đề mở ra 1 ko gian nghệ thuật , thơi gian ,tâm trạng.đó là sự ngạc nhiên của 1 lữ khách tới mảnh đất lạ tro lúc ngày tàn ,cảnh vật đi dần vao trạng thái yen tĩnh ,nghỉ ngơi.đứng trc con đèo lj sao tránh khỏi tâm trạng buồn .chư 'tà' như rung động nỗi buồn manmacs
bước tới deo ngang bóng xế tà
'bc tới' giúp nguoi đọc ấn định đc nơi bà viet bài thơ (BT) 200 năm trc. đó là trên đg thiên lì vào phú xuân nhận chức cung chung giáo tập thời nguyen.câu 2 mở ra cảng sắc con đèo đệ nhất hùng quan củ đại việt.ở đây có cỏ,cây nhưng phải chen vs đá ;có l nhưng phai chen vs hoa .điêp từ 'chen 'gợi tả cảnh hoang vu,hoang dại của thien nhien nơi con đèo.2 tiếng 'đá,lá' ở giữa câu vần vs nhau(vần lưng) phối âm vs vần chân (tà-hoa) đã làm cho nhac điệu câu thơ trở nên trầm bổng ,réo rắt:
bc tới đèo ngang bóng xế tà
cỏ cây chen đá,lá chen hoa
hai câu thơ 3,4 vs điển nhin từ trên đỉnh đèo xuống , nguoi lữ khách nhìn trên đỉnh xuống trông xa xa , điểm nhìn hướng về mấy chú tiều fu lom khom gánh củi về núi rồi trông sang mấy nhà lác đác chợ bên sông. t/g sử dụng n/t đảo ngữ nhấn mạnh vào hình dáng l'lom khom' của chú tiều fu gánh củi đang từng bc xuống núi gợi sự vất vảcuar nguoi lao động .tù tg hình 'lác đác' làm nổi bật su thưa thớt ,lèo tèo của mấy lều chợ miền núi ngày xưa .n/t đảo ngữ & phép đối .miền đât tuy có núi ,sông,vài chú tieu ,mấy nhà chợ nhưng đối vs lữ khach lúc chiều tàn vẫn hoang vắng ,cô liêu.
tiêp theo nu sĩ nghe đc âm thanh chim cuốc &chim gia gia gọi bầy lúc hoang hôn.tiếng chim tạo nên khúc nhạc buồn tro lòng nguoi lữ khách .n/t lấy cái động là tiếng chim để tả cái tĩnh là khung cảnh vấng lặng ,heo hút của con đèo ngang.ngoài ra phép tiểu đối cũng đc vận dụng tài tình
nho nc dau long con quoc quoc
thuong nha moi mieng cai gia gia
'nhớ nc, thg nhà ' đi vào 9 chiêù sâu cõi lòng người nữ sĩ tai hoa rồi tỏa rộng ra ko gian đèo ngang về tới quê hương thân yêu .bà nhớ tời kì vàng son dưới chiều Lê,nhớ cả quê hg ,gia đình.theo mạch cảm xúc đó thì 2 câu thơ cuối lại là 1 chân trơi cảm xúc mới
dừng chân đứng lại trơi ,non,nc'
1 mảnh tình riêng ta vs ta
t thấy 1 niềm xúc cảm đén bồn chồn tro 4 chữ 'dừng chân dứng lại '.cái nhìn bao la 'trời,non ,nc':nhĩn non ,nhìn gần ,nhìn cao,nhìn sâu ,nhìn 4 phía ... thấy 1 nỗi đau tan nát cã tâm hồn &còn lại '1 mảnh tình riêng'.bà tạo ra sư tg phản 'trời, non,nc'vô hạn vs cái nhỏ bé của '1 mảnh tình riêng'.nguoi lữ khách cô đơn khi đứng trc ở con đèo rông lớn này mà vấng lậng ,heo hút.nếu đọc 3 chư 'ta vs ta' hẳ ai cũng hiểu nỗi cô đơn của bà.
qua đèo ngang là BT cho thay phong cảnh TN kì thú của con đèo ngang & tâm trạng của bà huyện thanh quan khi bc tới con dèo mà chỉ vs 8 câu.điều đó phần nào cho thấy tài xuât chúng cua nguoi phụ nữ tài hoa này.
 
C

close_myheart98

minh thay mai cua ban boy_100 chua de cap den noi nho nuoc cua BHTQ ,moi chi neu duoc noi thuong nha thui
 
N

nguyentuyetnu123

Mình có bài này, bạn tham khảo nheng !!

QUA ĐÈO NGANG

Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả, cảnh sắc tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người.

Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mấy người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Bà Huyện Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim quốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào cái vắng vẻ tĩnh mịch của buổi chiều trên đèo.

Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vấn đề hết sức sâu sắc và lớn lao: nhớ nước và thương nhà.



Thương nhà thì đã rõ, bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu về Huế làm chức Cung trung giáo tập.

Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm.

Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim quốc. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba, thứ tư rồi.

Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác. Là một nhà thơ nhạy cảm, bà Huyện Thanh Quan hẳn có những điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi đau lòng khi nhớ nước có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.

Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Qua Đèo Ngang trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoa lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng quốc quốc, gia gia khắc khoải, dồn dập.

Và khi lên đến đỉnh đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: trời, non, nước. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: dừng chân đứng lại.



Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này.

Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi chất chứa, cô đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ.

Hình ảnh một con người, lại là một người phụ nữ, đứng sừng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao!

Ở đây có sự tương phản: tương phản giữa thời gian khoảnh khắc (chiều sắp hết) và vũ trụ vô cùng; tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc.

Sự tương phản ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian: tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn, và cả bóng hình nữ sĩ.

Qua Đèo Ngang là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian.

Có lẽ cho đến khi nào con đường Nam Bắc, còn Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng trên cao trội lên bóng chiếu trên đỉnh đèo.

* Nguồn: Tư liệu văn học.



|-)|-)|-)​
 
D

dinhthupc

Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa.

Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này.
http://thuvienvanmau.com/phan-tich-bai-tho-qua-deo-ngang-cua-ba-huyen-thanh-quan.html
 
Top Bottom