Văn 6

T

thoconxauxi_2002

Ta là Rùa Vàng, một vị quan dưới trướng Lạc Long Quân. Hôm ấy, trong lúc ta đang ghi chép sổ sách trong thư phòng thì được tin Đức Long Quân triệu kiến gấp. Ta bèn tức tốc vâng mệnh, đến điện gặp Ngài. Vừa tới nơi ta đã nghe giọng nói như sầm rền của Long Quân: – Ngày mai, lúc Lê Lợi cưỡi thuyền rồng trên hồ Tả Vọng dạo chơi, người hãy nổi lên đòi lại thanh gươm thần cho ta. Vâng mệnh Long Quân ta lui về thư phòng, chuẩn bị ngày mai thực thi mệnh lệnh. Nhớ lại năm xưa, vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, nhân dân cực khổ vô cùng. Bởi bọn giặc vô cùng hung ác, chúng coi người dân như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược, thiên hạ ai ai cũng căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng. Nhưng trong buổi đầu thế lực còn non yếu nên đã nhiều lần thất bại. Thấy vậy, để giữ đúng lời hứa với nàng Âu Cơ năm xưa “khi có việc cần thì giúp đỡ lẫn nhau”, Đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần Ngài vẫn đeo bên người để con cháu đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại đất nước. Lúc đó chính ta là người mang gươm cho nghĩa quân mượn. Ta đã tìm hiểu rất kĩ và biết rằng ở vùng Thanh Hóa có một người đánh cá tên là Lê Thận, tính tình hiền lành, chất phác, sau này sẽ tham gia nghĩa quân nên ta quyết định chọn chàng làm sứ giả trao gươm báu. Như thường lệ, vào một đêm trăng sáng, gió thổi mát lạnh, Lê Thận đem lưới thả xuống sông bắt cá. Đã chờ sẵn từ lâu, ta bí mật bỏ lưỡi gươm vào trong lưới của anh ta. Lúc kéo lưới lên, thấy nằng nặng, chàng đã mừng thầm, chắc hẳn là có cá to. Nhưng khi thò tay xuống chẳng thấy cá đâu mà chỉ thấy gươm báu dưới dạng một thanh sắt chàng bèn vứt đi và lại thả lưới tiếp. Phải vất vả ba lần ta mới khiến anh chàng nhận ra đó là lưỡi gươm và chịu mang về. Quả nhiên, về sau Lê Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng hăng hái, gan dạ, không nề nguy hiểm. Vì vậy, một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy tùy tòng đến nhà Thận. Thanh gươm thần gặp được chủ tướng nên tự động sáng rực lên trong túp lều tối om. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lên xem và thấy hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song chuyện đó cũng nhanh chóng bị quên đi, không ai biết đó là báu vật.
Cho tới một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng sĩ rút lui mỗi người một ngả. Lúc chạy ngang qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy có ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc. (Đó chính là phần chuôi của thanh gươm thần vốn do Đức bà Âu Cơ cất giữ. Người cho chim thần đem đến đặt trên ngọn đa). Lê Lợi nhớ đến phần lưỡi gươm ở nhà Lê Thận bèn lấy chuôi gươm giắt vào lưng.
Ba ngày sau, khi gặp lại mọi người trong nhà Thận, Lê Lợi bèn đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho họ nghe. Và khi đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in. Lê Thận bèn nâng gươm lên ngang đầu, cung kính nói với mọi người: – Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc! Đến đây, nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, thanh gươm thần đã được đặt vào đúng vào vị trí của nó. Thế mà cũng đã một năm trôi qua rồi. Quả nhiên từ khi có thanh gươm thần giúp sức, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng mạnh, liên tiếp giành được thắng lợi, làm cho quân Minh bạt vía, kinh hồn. Lê Lợi giờ đã lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Miên man trong những kỉ niệm của một năm trước, ta không ngờ trời đã sáng. Ta liền vội vã lên đường, thực hiện nhiệm vụ mà Long Quân giao. Kia rồi! Đoàn thuyền rồng đã hiện ra trước mắt. Ta từ từ nổi lên mặt nước và bơi ra đón trước mũi thuyền. Ta cất giọng chậm rãi: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”. Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi nâng gươm hướng về phía ta và nói: “Xin Thần Kim Quy về báo lại với Đức Long Quân rằng Lê Lợi thay mặt muôn dân kính cẩn đội ơn Ngài đã cho mượn gươm báu giúp dân, giúp nước. Xin cho chúng dân đổi tên hồ nay thành hồ Hoàn Kiếm để đời đời nhớ đến công đức của Ngài”. Nghe xong, ta bèn ngậm gươm thần rồi lặn xuống nước. Trở về Long Cung, ta tâu lại những điều Lê Lợi đã nói với Long Quân. Người rất vui và hài lòng. Người giao cho ta nhiệm vụ hàng năm nổi lên mặt hồ một lần để xem xét dân tình, kịp thời báo cho người khi con cháu lâm nguy. Rùa Thần ta rất đỗi vinh hạnh nhận sứ mệnh cao cả đó.

nguồn : mạng
 
O

one_day

Ngày ấy, ta sống ở hồ Tả Vọng có lẽ được ngót ngàn năm. Theo thói quen, cứ vài tháng một lần ta lại bơi ra chỗ đến Ngọc Sơn bây giờ để xem người Việt sống ra sao. chả thế mà bao bước thăng trầm của dân Nam ta đều biết cả. Lần ấy vì có việc phải xuống thủy cung đến mấy năm, ta không được nhìn thấy con người. Nhưng lạ thay khi vừa trở lại, chưa bao giờ ta thấy không khí ở ven hồ buồn đến vậy. Bời đến gần bờ, nghe dân thành Thăng Long nói chuyện ta mới biết nước Nam vì bị quân Minh xâm lược nên mới hoang tàn đến vậy. Ta đem câu chuyện kể với Long Vương. Thế rồi chuyện gươm thần với hồ Hoàn Kiếm sinh ra từ đó.

Đức Long Quân vừa nghe xong câu chuyện, người thấy xót xa ben sai binh lính ra đáy đại dương mang về một thanh bảo kiếm ngàn năm. Trước quần thần, Long Vương nói:

- Nay ta phái Rùa Vàng mang chiếc gươm thần này lên cho dân Nam mượn mà giết giặc. Sau khi đã dẹp xong lại theo lệnh của ta mà mang gươm hối trả. Còn những chuyện khác, ta đã dự liệu xong rồi. Nhà ngươi nhận lệnh rồi đi ngay kẻo thời gian rất gấp.

Hôm đó ta theo ý Long Vương, mang bảo kiếm lên thả ở hồ Tả Vọng. Ngay đêm đó, thanh kiếm rơi vào tay của anh chàng đánh cá Lê Thận - sau này là một nghĩa sĩ trung thành của vua Lê.

Xong nhiệm vụ, ta lại bơi lội tung tăng ở hồ Tả Vọng để nghe ngóng tình hình. Gần một tháng sau ta nghe dân thành Thăng Long kể lại: không hiểu từ đâu mà lãnh tụ khởi nghĩa nông dân Lê Lợi có được một thanh kiếm quý. Từ ngày có nó, nghĩa quân đánh đâu thắng đó, sức mạnh tăng gấp bảy tám lần. Việc quân Minh bị thất bại chỉ là chuyện nay mai. Nghe chuyện ta thấy rất mừng vì đã không phụ sự ủy thác của Long Vương.

Quả đúng như dự đoán, một thời gian sau nghĩa quân của Lê Lợi đã quét sạch giặc Minh giữ nguyên bờ cõi. Vậy là nhiệm vụ của ta và kiếm thần cũng đã hoàn thành. Nhưng ở trên bờ hồ đợi mãi mà chưa thấy lệnh của Long Vương, ta bắt đầu thấy nóng lòng. Gần một năm sau ta bèn quyết định bơi xuống thủy cung để hỏi cho rõ nguyên do thì Đức Long Quân bèn nói:

- Dù giặc đã dẹp xong nhưng trong nước còn nhiều phe đảng chưa chịu quy hàng. Ta muốn cho vua Nam mượn thêm một thời gian để duy trì nhuệ khí. Nay đã đến lúc hồi gươm, nhà ngươi đi làm nhiệm vụ được rồi.

Ta lại mải miết bơi lên gặp ngay ngày vua Lê đi dạo ở hồ Tả Vọng. Chọn lúc thuyền ra gần giữa, ta bèn ngoi lên trước mũi thuyền và nói:

- Xin bệ hạ hoàn gươm cho Long Quân.

Vua Lê tháo gươm đưa ra trước mũi thuyền, ta đớp lấy rồi lặn một mạch về đến thủy cung giao kiếm cho Long Quân. Vì làm rất tốt việc người giao mà từ đó, Long Quân cho họ nhà ta sinh sống vĩnh viễn ở đây đến hàng ngàn tuổi.

Lại nói về vua Lê, sau ngày hôm đó vua bèn cho đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm. Về sau người đời còn xây ở giữa hồ một cái tháp gọi là Tháp Rùa khiến họ hàng con cháu nhà rùa ta tự hào lắm về thành tích của ông cha mình.

Nguồn: diendankienthuc.net
 
Top Bottom