Văn 6-7

C

clow0201

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

C1: kể ngắn gọn một truyền thuyết hay một cổ tích mà em đã học
C2: Viết đ.văn ngắn từ 10-15 dòng trình bày sự hiểu biết của em về vb "đêm nay bác k ngủ "
C3: 5 từ ghép đẳng lập và Chính phụ rồi đặt câu vs chúng
C4: Viết đ.văn 8-10 câu miêu tả v ề thiên nhiên làng quê có sử dụng câu ghép đẳng lập và chính phụ
:):):)
 
K

keohong2000

Đây là bài làm kể về truyền thuyết Thánh Gióng
Tham khảo tại đây nha bạn!
Chúc bạn học tốt!
 
T

tayhd20022001


C1: kể ngắn gọn một truyền thuyết hay một cổ tích mà em đã học.
Bài làm
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên gọi là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mỵ Nương được vua cha yêu thương rất mực. Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng thật xứng đáng.


Một hôm có hai chàng trai đến, xin ra mắt nhà vua để cầu hôn. Một người ở vùng núi Ba Vì, tuấn tú và tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Nhân dân trong vùng gọi chàng là Sơn Tinh. Còn một người ở mãi tận miền biển Đông tài giỏi cũng không kém: gọi gió, gió đến, hò mưa, mưa tới - Chàng này tên gọi là Thủy Tinh.

Một người là chúa của miền non cao, một người là chúa của vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng cả.

Hùng Vương băn khoăn không biết nhận lời ai, từ chối ai. Nhà vua cho mời các quan lạc hầu vào bàn mà vẫn không tìm được kế hay. Cuối cùng, Hùng Vương phán rằng:

- Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Ngày mai, nếu ai đem đồ sính lễ đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, thì được rước dâu về.

Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước và được phép đưa dâu về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mỵ Nương.

Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành dông bão đùng đùng rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn tiến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng rồi ngập nhà, ngập cửa.

Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép màu bốc từng quả đồi, di từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời liền, cuối cùng Thủy Tinh đuối sức phải rút quân về.

Từ đó, oán ngày càng thêm nặng, thù ngày càng thêm sâu, không năm nào Thủy Tinh không làm mưa làm bão, dâng nước lên đánh Sơn Tinh và lần nào Thủy Tinh cũng thua, phải bỏ chạy.


Phạm Ngọc Hy
(kể )



Lời bình

Truyện "Sơn Tinh - Thủy Tinh" (còn được gọi là "Sự tích Thánh Tản" hoặc "Tản Viên Sơn Thần") cốt truyện ngắn gọn, đơn giản nhưng nội dung ý nghĩa rất dồi dào, phong phú, hình thức nghệ thuật rất độc đáo.

Trước hết, hãy nói về đặc điểm thể loại của truyện này. Đây là thần thoại hay truyền thuyết? Từ nhiều năm nay, truyện "Sơn Tinh - Thủy Tinh" đã thường xuyên có mặt trong Sách giáo khoa Văn học trường phổ thông. Nhưng chưa có sự nhất quán trong việc xác định thể loại của truyện này giữa những người soạn sách và những lần xuất bản.

Đối chiếu với chức năng và đặc điểm cơ bản của thần thoại và truyền thuyết thì truyện này mang tính chất của cả hai loại truyện, nhưng chủ yếu là thần thoại. Tính chất truyền thuyết thể hiện rõ nhất là ở nhân vật "Hùng Vương thứ 18", nhưng Hùng Vương và Mị Nương đều là những nhân vật thứ yếu ở trong truyện. Hai nhân vật chính của truyện là Sơn Tinh và Thủy Tinh, cả hai đều là nhân vật mang tính chất huyền thoại. Truyện tập trung phản ánh và thể hiện sự xung đột của hai thần (thần Nước và thần Núi). Vì thế có người đã gọi truyện này là cuộc "Chiến tranh giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh". Đó là sự phản ánh và lý giải dưới hình thức hoang đường, huyền thoại hiện tượng lụt bão diễn ra hằng năm ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, lãnh thổ chủ yếu của nước Văn Lang cổ đại, tiền thần của nước Việt Nam bây giờ.

Sơn Tinh là thần núi nhưng không phải thần núi nói chung (mang tính phiếm chỉ) mà là thần núi Tản Viên. Thủy Tinh là thần nước, nhưng cũng không phải thần Nước nói chung (như "Thủy Thần" hay "Thần Biển" mà là Thần Nước vùng sông Hồng, sông Đà, sông Thao... Nói cách khác, đó là thần núi và thần nước trên lãnh thổ nước Văn Lang của các vua Hùng.

Vì thế cả Sơn Tinh và Thủy Tinh đều thần phục, tôn kính vua Hùng, đều muốn lấy Mị Nương và làm "phò mã" của nhà vua. Và khi không lấy được Mị Nương thì Thủy Tinh chỉ dám tức giận và đuổi đánh Sơn Tinh chứ không dám trách cứ gì vua Hùng cả.

Điều đó thật kỳ lạ, và trái với lô-gich thông thường của xã hội loài người. Bởi vì, cứ theo truyện kể thì Sơn Tinh không hề có lỗi. Chàng lấy được Mị Nương chỉ vì chàng đã đem đồ sính lễ đến trước Thủy Tinh, đúng như lời thách cưới của Hùng Vương.

Chung quanh việc này có nhiều điều thú vị đáng nói. Một là, nó chứng tỏ truyện này chỉ có thể được xây dựng, sáng tạo vào thời kỳ mà việc hôn nhân, cưới hỏi trong xã hội người Việt đã có quy củ, nền nếp, có lệ luật hẳn hoi. Theo truyện kể thì đó là thời "Hùng Vương thứ 18", nghĩa là giai đoạn cuối cùng của nước Văn Lang. Hai là, tục thách cưới có thể tạo điều kiện cho người ta lựa chọn chàng rể theo ý muốn. Những lễ vật mà Hùng Vương thứ 18 yêu cầu ("voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng maọ..") thể hiện rất rõ sự "thiên vị", cảm tình của nhà vua đối với Sơn Tinh. Bởi vì tất cả những thứ ấy đều là sản vật của vùng rừng núi, quê hương của Sơn Tinh. Và do đó, việc Sơn Tinh thắng cuộc, lấy được Mị Nương là điều Hùng Vương đã mong muốn và dự kiến, chuẩn bị từ khi thách cưới.

Sự thiên vị, cảm tình của Hùng Vương với Sơn Tinh phản ánh thái độ và tình cảm của người Việt thời kỳ Văn Lang với các hiện tượng và thế lực tự nhiên: núi rừng và lũ lụt. Núi rừng chẳng những đã cung cấp đồ ăn, vật dụng hằng ngày cho người Việt cổ mà còn giúp họ thoát chết khi lũ lụt lên cao. Khi chưa có đủ điều kiện và phương tiện trị thủy, thì những dòng nước hung dữ trong mùa lũ lụt quả thực là một tai họa khủng khiếp.

Cha ông đã coi đó là tai họa hàng đầu, đáng sợ nhất trong bốn thứ tai họa lớn: "Thủy, hỏa, đạo, tặc".

Nhiều người cho rằng, Thủy Tinh là sự hình tượng hóa và thần thánh hóa nước lũ, còn Sơn Tinh là sự hình tượng hóa và thần thánh hóa tinh thần, ý chí, khả năng và thành quả chống bão lụt của nhân dân.

Không hoàn toàn như vậy, Sơn Tinh và Thủy Tinh là những hình tượng huyền thoại, được hình thành, nhào nặn trong trí tưởng tượng của người Việt cổ, trong đó những yếu tố tự nhiên và xã hội, hiện thực và lý tưởng đã kết hợp, hòa lẫn với nhau, rất khó tách bạch. Sơn Tinh là sự khái quát hóa, hình tượng hóa và thần thánh hóa không chỉ riêng lực lượng con người (tinh thần, ý chí, thành quả chống lũ lụt của nhân dân) mà còn có cả lực lượng tự nhiên (rừng, núi). Sự xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa con người và hiện tượng bão lụt trong thiên nhiên mà còn phản ánh cả sự xung đột giữa con người với con người, giữa các bộ tộc miền biển và miền núi trong thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng.

Cơn giận lưu niên "năm năm báo oán, đời đời đánh ghen" của Thủy Tinh là sự phản ánh và lý giải vô cùng độc đáo, tài tình, hiện tượng bão lụt hằng năm (mang tính chu kỳ) của thiên nhiên và hiện tượng ghen tuông dai dẳng của con người.

Chi tiết: Thủy Tinh dâng nước cao lên bao nhiêu, Sơn Tinh cũng nâng núi Tản Viên cao lên bấy nhiêu, thật nên thơ và độc đáo. Đó là ước mơ nhưng đồng thời cũng ít nhiều có tính hiện thực. Bởi vì trừ nạn hồng thủy ra, không có trận lụt nào có thể dâng nước lên cao hơn núi Ba Vì. Nếu không như vậy thì làm sao người Việt có thể tồn tại được đến ngày nay?

Nguồn - https://www.google.com.vn/url?sa=t&...7jGwTiR06bBB133H1Eup7lA&bvm=bv.49784469,d.dGI
 
W

whitetigerbaekho

Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
(Tố Hữu)
Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những câu chuyện có sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian về buổi đầu của lịch sử dân tộc – một câu chuyện vừa mang nét hiện thực vừa mang nét huyền thoại thời Âu Lạc. Hơn thế nữa, đây cũng là tác phẩm mang dấu ấn bi kịch sớm nhất trong văn chương dân tộc. Giếng Mị Châu ở Đông Anh còn đó, bên cạnh bài học về việc cần đề cao cảnh giác với kẻ thù, tấm oan tình còn để lại những bài học mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Mị Châu là con gái của Thục An Dương Vương. Người con gái trong trắng ngây thơ, tin tưởng tình yêu một cách chân thành cuối cùng đã bị chính người chồng đưa vào bẫy, làm mất nước. Câu chuyện trong sách giáo khoa chỉ tập trung vào mối quan hệ Trọng Thủy – Mị Châu nhưng cũng đủ sức giúp ta nhận ra những thủ phạm và nạn nhân đích thực của bi tình sử này.
Trọng Thủy làm rể của An Dương Vương. Mọi nguyên nhân bi kịch trước hết bắt đầu từ An Dương Vương khi đã để tình riêng lấn át tầm nhìn của một đấng minh quân. Nhất là, kẻ ở rể lại phục vụ cho dã tâm của Triệu Đà – lấy bí quyết nỏ thần để cướp nước. Sự mất cảnh giác đáng trách của An Dương Vương làm mất nước đã đành , nhưng hậu quả của nó mang ý nghĩa bi kịch là làm nên cảnh sinh li tử biệt, tan vỡ tình duyên của Mị Châu – Trọng Thủy.
Mặc dù truyền thuyết được ghi lại bởi người đời sau hết sức ngắn gọn, nhưng cốt lõi của bi kịch ấy vẫn thật rõ ràng: mối quan hệ thông gia của hai nhà vốn dĩ đối địch tiềm ẩn những bất trắc khó lường. Vậy mà An Dương lại “vô tình” gả con gái yêu của mình cho con trai kẻ thù. Theo mạch kể của truyền thuyết, không có những lí giải về nguyên nhân sâu xa khiến cho Mị Châu đã tiếp tay cho Trọng Thủy đánh cắp lẫy nỏ thần Kim Qui. Nhưng theo mạch truyện, Mị Châu rõ ràng đã tin Trọng Thủy đến với nàng bằng cả tấm chân tình. Sự ngây thơ ấy của cá nhân nàng là điều có thể tha thứ , nhưng vì tình riêng mà để lộ bí mật quốc gia thật sự là một tội lỗi khó dung tình. Đáng trách hơn, tình yêu ấy thiếu lí trí sáng suốt đế nỗi nàng không nhận ra được những ẩn ý trong lời nói của Trọng Thủy khi từ biệt để cảnh báo với vua cha. Nàng không đủ tỉnh táo để nhận ra trong lời chồng tiềm tàng hiểm hoạ binh đao: “Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, bắc nam cách biệt, ta lại tìm nàng lấy gì làm dấu?”. Mị Châu mê muội đếm mức không thể nói một lời hỏi nguyên cớ chia lìa, lại chỉ chăm chăm nghĩ về sự đoàn tụ lứa đôi. Đặt tình riêng lên trên vận mệnh quốc gia như vậy quả thật đáng phê phán.
Đàng sau tình duyên Mị Châu – Trọng Thủy là cả một âm mưu thôn tính thâm hiểm của Triệu Đà, không ai khác kẻ thực hiện gian kế ấy lại là Trọng Thủy. Hắn ngay từ khi đạt chân đến Loa Thành làm rể đã đặt nhiệm vụ gián điệp lên hàng đầu. Bỉ ổi hơn, hắn đã lợi dụng ngay người vợ ngây thơ để thực hiện gian kế mĩ mãn. Xét về bản chất Trọng Thủy là một kẻ gian trá và tham lam: lừa gạt vợ để lấy vuốt Rùa Vàng, vừa âm mưu cướp được nước, vừa muốn được chiếm đoạt trọn vẹn trái tim của Mị Châu. Từ thủ phạm, hắn đã biến thành nạn nhân của chính mình. Không thể nào có sự dung hoà giữa quyền lợi quốc gia với tình yêu đôi lứa khi thù địch là cái mầm hoạ tiềm ẩn trong mối quan hệ vợ chồng.
An Dương Vương mất nước từ sự thiếu cảnh giác, khinh địch của mình. Bản thân nhà vua mong mỏi hoà hiếu giữa hai quốc gia, chấm dứt cảnh đao binh từ duyên tình con trẻ. Nhưng trớ trêu thay, đó lại là chỗ hở để kẻ dã tâm là cha con Triệu Đà lợi dụng. Bản thân An Dương Vương cũng phải gánh chịu bi kịch khi tuốt gươm trừng phạt kẻ phản bội là chính con gái yêu của mình, nhà vua đã đứng trên quyền lợi quốc gia mà gạt bỏ tình riêng, hành động ấy được trân trọng bằng cách xử lí của dân gian : Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển. Mị Châu phải trả giá bằng sự nông nổi của mình, nhưng nàng cũng kịp thức tỉnh để nhận ra bi kịch của mình. Một người con gái ngây thơ trong trắng đáng yêu bị phản bội, cuối cùng nàng đã nhận ra bộ mặt kẻ thù dù quá muộn màng. Cái nhìn nhân hậu của nhân dân ta đã dành cho Mị Châu khi để nàng hoá thân thành ngọc thạch, máu hoá thành hạt châu nhưng cũng thật công bằng khi từ lập trường yêu nước trừng trị kẻ có tội. Mị Châu quả thật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Truyền thuyết không còn chỉ kể lại trang sử mất nước mà chứa đựng cái nhìn thương cảm cho lứa đôi – khi tình yêu phải đối mặt với âm mưu.
Trọng Thủy đã phải trả giá cho sự lừa dối khi hắn chỉ còn mang được xác Mị Châu về chôn cất. Với kẻ cướp nước, nhân dân ta không để cho hắn chiếm đoạt và tiếp tục lừa phỉnh Mị Châu. Nhưng điều đáng nói hơn là cái chết lao đầu xuống giếng của Trọng Thủy và kết thúc câu chuyện: “Người đời sau mò được ngọc trai ở biển Đông, lấy nước giếng mà rửa, thì thấy trong sáng thêm”. Sự lừa dối nhơ nhớp của Trọng Thủy là lời cảnh tỉnh : chỉ có tình yêu chân thành mới được đền đáp xứng đáng, không thể nào tình yêu đồng hành với những toan tính thấp hèn, tham vọng cướp nước.
Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy muôn đời vẫn còn giá trị từ ý nghĩa nhân văn, từ bài học cảnh giác cũng như lời nhắc nhở về cách giải quyết các mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng. Câu chuyện bi kịch thấm thía ấy cũng là sư ïthể hiện lập trường và tình cảm rõ ràng của nhân dân ta trước các vấn đề lịch sử và quan hệ con người.


-------------------------------

Hoặc

Chuyện tình một thuở còn vương mãi / Cho đến bao đời nhớ Mỵ Châu… Nếu không có câu chuyện bi thảm đó, mối tình đó hẳn không được truyền lại đời đời về sau và mỗi thế hệ sau này, qua hàng ngàn năm khi nhắc đến mối tình đó đều không khỏi xúc động, cảm thông…”, đó là lời dẫn của nhà văn Thái Vũ khi ông đặt bút viết “Tình sử Mỵ Châu”.

Từ xa xưa, Thúy Kiều – Kim Trọng trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), tình yêu thời Vua Hùng đến An Dương Vương Thục Phán (con của Âu Cơ và Lạc Long Quân với tích trăm trứng đẻ trăm con), truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh giành công chúa Mỵ Nương, việc thần Tản Viên (Nguyễn Tuấn) lấy công chúa Ngọc Hoa, sự tích “Trầu cau”; rồi Mỵ Nương cùng chàng Trương Chi “người thì thậm xấu hát thì thậm hay” cho đến Tiên Dung - Chử Đồng Tử... hay ở phương Tây, mối tình Romeo và Juliet trong kịch Shakespeare, Roses và Jack (trong vụ chìm tàu Titanic năm 1911) trong phim Titanic… là những mối tình sâu nặng, đi kèm với những bi kịch, nhưng tấn thảm kịch Mỵ Châu - Trọng Thủy - là một mối tình có lẽ lạ nhất từ trong lịch sử kể cả phương Đông lẫn phương Tây. Thời Đông Chu Liệt Quốc, việc Phạm Lãi hy sinh người yêu là Tây Thi để báo quốc đã dùng kế “mỹ nhân” mê hoặc Ngô Phù Sai để Việt vương Câu Tiễn mười năm nằm gai nếm mật báo thù. Thời An Dương Vương thì Triệu Đà với dã tâm chiếm Âu Lạc đã dùng “nam nhân kế” gửi con trai là Trọng Thủy sang ở rể, làm con tin ba năm, nhằm tìm bí truyền về “nỏ thần” Âu Lạc. Trọng Thủy tuy vì hiếu nhưng một mực chung thủy cùng Mỵ Châu. Cái chết của Mỵ Châu là nỗi đau lớn nhất khi “Trọng Thủy đã từ bỏ một ngai vàng, từ bỏ cả chính đời mình, căm thù điều ác từ một người cha ruột thịt. Anh đã về với TÌNH YÊU”. Ở góc độ nào đó, Trọng Thủy đã vẹn tròn chữ hiếu với cha, tròn trách nhiệm với nước và cao quý hơn với nghĩa vụ làm chồng. Vì thế khi hay tin Mỵ Châu bị vua Chủ chém chết, chàng đã tự vẫn nơi giếng Ngọc, “chết bên giếng Ngọc, như cố ôm lấy giếng Ngọc giữ cho màu nước trong xanh và ngọt mát, giữ lấy gương mặt Mỵ Châu…”.

Nhà văn Thái Vũ đã dựa vào truyền thuyết thần Kim Quy, đó là “kế” của tướng Cao Lỗ xây thành Cổ Loa, móng rùa làm nỏ… lấy nhiều sử liệu thời Đông Chu Liệt Quốc cho đến Chiến Quốc, mười tám đời vua Hùng dựng nước… kể cả Kinh Thi của Khổng Tử làm cho câu chuyện thêm lung linh và một điều hết sức quý, đó là từ trong trang sách, độc giả hiểu thêm về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, An Dương Vương Thục Phán… Chứng tỏ nhà văn nghiên cứu sử liệu, tư liệu công phu, nghiêm túc tuy chỉ là câu chuyện dã sử. Thái Vũ đã lý giải về TÌNH YÊU - đề tài muôn thuở của nhân loại từ buổi khai thiên lập địa cho đến muôn sau và mãi mãi vẫn… đẹp.

Nhà văn Thái Vũ đã minh oan cho Mỵ Châu - Trọng Thủy rằng: “Tình tiết chung quanh việc con trai Triệu Đà - Trọng Thủy - sang ở rể để điều tra tình hình và đánh cắp bí mật quân sự, cùng với câu chuyện tình giữa Trọng Thủy và công chúa Mỵ Châu, thì đó có thể chỉ là truyền thuyết, do người sau tạo nên… Khôn và dại như nhau khi ngã vào… tình yêu! Mỵ Châu vì quá yêu Trọng Thủy nên đã lộ bí mật quốc gia - kỹ thuật nỏ thần - và rải lông ngỗng dẫn đường cho Trọng Thủy đuổi theo hướng mình đi nhưng chính lại là dẫn đường cho quân Triệu Đà đuổi theo dấu vết An Dương Vương. Cái chết bi thảm của Mỵ Châu là kết quả của mối tình chung thủy đó. Nhưng nếu chỉ có một mình Mỵ Châu chung thủy và cái chết của nàng là “hết chuyện” thì chuyện tình chỉ dừng đến đó và người đời không ai nhắc nhở làm gì. Đến đây, vai trò Trọng Thủy nối tiếp sau cái chết của Mỵ Châu mới làm nên chuyện… Cảm tình muôn đời đối với riêng Trọng Thủy chính là vì vậy, và dường như người ta… bỏ lơ, quên đi vai trò phản bội của anh ta trước đó”.

“Tình sử Mỵ Châu" (Nhà xuất bản Thanh Niên, 2004) có bốn phần và một chương kết. Điều hấp dẫn độc giả, đó là nhà văn Thái Vũ ở mỗi phần đều có tựa thơ dẫn đề do chính ông sáng tạo như: Ô hay! Hoa đào, hoa đào/ Đến với mùa xuân / Ai kia một lần… / Tương tư! Thành Loa! Thành Loa/ Đất xưa thành cũ/ Chuyện từ đây muôn thuở lưu truyền/ Có phải Mỵ Châu gây nên tội / Cho thành Loa cổ ngậm hờn oan?/ Chuyện tình ai dễ quên ai. Càng cảm động hơn, khi cái chết bi thảm của Mỵ Châu được nhà văn thông qua hình ảnh ẩn dụ để miêu tả:

“Già nhìn Mỵ Châu, nhìn chiếc áo lông ngỗng lót vải hồng, chợt hiểu. Già nói:
-Giặc nào ở đâu xa! Sau lưng nhà vua đó thôi!
An Dương Vương quay đầu lại: sau lưng chỉ mỗi một mình Mỵ Châu.
-Giặc ư? Con ta…
Tiếng nghẹn trong cổ họng khi vua Chủ nhìn tấm áo lông ngỗng.
-Trời!
Cơn giận ngập lút cổ.
Mỵ Châu cũng chợt hiểu. Cô tụt xuống ngựa, quỳ thưa:
-Con có lòng nào thì xin hóa thành rơm rác, còn không, cha ơi, con xin hóa làm đá…
Thép không hòa với máu, nhưng máu đã nhòe ánh thép. Mỵ Châu và cô gái bận màu hồng! Máu?”.

"Tình sử Mỵ Châu" của nhà văn Thái Vũ một phần nào đóng góp vào nền văn học sử, một mặt nhìn nhận lại một tình yêu vốn xưa nay được hiểu đơn thuần ở góc độ lịch sử. Âm mưu không giết nổi tình yêu, chính vì vậy, tình yêu luôn có bi kịch, bi kịch nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp và sức mạnh.
 
H

happy.swan

C1: kể ngắn gọn một truyền thuyết hay một cổ tích mà em đã học.

Tuỳ từng truyền thuyết mà bạn muôn viết song phải đảm bảo yêu cầu:
- Đủ các chi tiết chính.
- Lời kể không quá rập khuôn theo văn bản gốc có thể chỉnh sửa không quá nhiều.
- Có thể thêm những lời bình về nhân vật chi tiết (nho nhỏ thôi).

VD dàn ý:
MB: Giới thiệu về truyền thuyết (ngắn gọn đủ nội dung)
TB:
- Nội dung theo sườn, mạch mình nói ở trên.
KB: Những suy nghĩ cũng như bài học của mình rút ra từ câu chuyện.
 
Top Bottom