Với Chí Phèo, Nam Cao đã xuât hiện trong văn học như một tác giả tiêu biểu nhất của văn học hiện
thực phê phán 1940 -1945, thời kỳ mới đầy thử thách với dòng văn học đó. Cũng như các cây bút
lớp trước, Nam Cao đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người
nghừo bị áp bức bóc lột đương thời. Có điều, trong cảm hứng “vạch khổ” hcugn của mọi nhà văn
hiện thực, ngòi bút Nam cao có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình
tượng nhân vật Chí Phèo - một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện
đầy đủ cái nhìn mới mẻ ,độc đáo, có chiều sâu cua Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khổ của người
cố nông.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc căm
dìu, cả đời không hề biết đến bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…Hắn ra đời trong
một cái lò gạch cũ hoang, trong chiếc váy chụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này đến đi
ở cho nhà nọ, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu…
Đó là cuộc đời khốn khổ của một kể thuộc hạng “cùng đơn cả dân cùng” ở nông thôn trước cách
mạng. Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút Nam Cao tập trung thể hiện không phải
ở những cái đó mà ở chỗ khác: người nông dân cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả
một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình, mà anh đã bị những thế lực đen tối cướp đi cả
bộ mặt người cùng linh hồn để trở thành một con quỷ dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.
Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, đầy ấn tượng: Chí Phèo say rượu, vừa đi vừa chửi.
Nhưng phải đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo, có cái gì như sự vật vã tuyệt vọng của một
con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được. Trong cơn say đến mất cả lí
trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận thấm thía “nông nỗi” của thân phận mình: đó là cái cô đơn
khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm
được người ta chửi vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp, đối thoại, chửi lại hắn tức là còn
thừa nhận hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ là “sự im lặng đáng sợ”. Chí Phèo
vẫn có một mình trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng
say rượu!...
Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh, nát rượu. Khi còn trai trẻ, anh canh điền nàh
Bá Kiến ấy đã áo ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ
một con lơn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm, tức là mơ ước một cuộc sống
hạnh phúc hết sức bình dị bằng lao động. Khi ấy, tuy còn rất trẻ trung, anh cũng phân biệt tình yêu
chân chính và thói dâm dục xấu xa khi bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba “quỷ quái”, anh chỉ thấy
được nhục chứ không yêu đương gì! Nhưng bản chất lương thiện, trong tróng ấy của anh bị hủy
hoại. Lão cường hào cào già Bá Kiến vì ghen tuông vu vơ đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó phải
ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để thả
ra một anh Chí Phèo hung ác, lưu manh, tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một
con quỷ dữ. Trở về làng Vũ Đại đầy bọn cường hào độc ác “ăn thịt người không tanh” đó, nều Chí
Phèo hiền lành nhìn nhục thì càng bị đạp giúi xuống, không ngóc đầu lên được. Hắn sống thì phải
gây gổ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy, Chí Phèo tìm rượu. Thế là
Chí Phèo luôn luôn say, và hắn say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chính xã hội ấy
đã vằm nát bộ mặt con người, cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở
nên xa lạ với mọi người, là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu người dân làng…và
thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa, ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.
Qua việc miêu tả hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính
quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa: người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào chỗ cũng đã quay
lại chống trả bằng con đường lưu manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có chuyện Năm
Thọ, rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo, hiện tượng ấy chắc gì đã chấm dứt. Chi tiết kết thúc truyện
(nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và bỗng thấy thoáng hiện cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa và vắng không người qua lại…, có nhiều ý nghĩa: rất có thể, từ cái lò gạch cũ bỏ
không, lại có một “hí Phèo con”ra đời để nối nghiệp bố..Điều chắc chắn là chừng nào còn bọn cường
hào ức hiếp dân lành, không cho họ được sống, thì chừng đó còn những người lao động phải rơi vào
con đường lưu manh để giành lấy miếng ăn, tức là bị hủy diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền
làm người. Truyện Chí Phèo cho thấy cái qui luật tàn bạo đó trong xã hội cũ.
Tình trạng lưu manh hóa của Chí Phèo là một biểu hiện nỗi đau khôn cùng của con người sinh ra là
người mà không được làm người. Có điều, khi Chí Phèo hầu như tê liệt về ý thức sống, sống mù tói
trong kiếp sống không còn là người thì anh không cảm nhận rõ rệt nỗi đau thân phận bi đát đó của
mình. Nhưng đến khi bản chất người lao động lương thiện trong Chí Phèo trở về, Chí Phèo bỗng
thềm vô hanh được hòa với mọi người. Bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt, Chí Phèo mới thật sự rơi vào
một bi kịch đau đớn trong tâm hồn và dẫn đến thảm kịch.
Trong một cơn say rượu, cảm thấy bức rứt, ngứa ngáy da thịt, Chí Phèo đã gặp Thị Nởvà đã xông
tới người đàn bà xấu xí đó một cách rất … Chí Phèo. Nhưng điều kì diệu là, nếu như lúc đầu, thị Nở
chỉ khơi dậy bản năng sinh vật của gã đàn ông say rượu Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị
đầy ân tình và tình yêu thương mộc mạc, chân thành cua thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương
thiện trong anh. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo sau lần gặp với thị nở là
đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ. Sáng hôm ấy, sau khi tỉnh dậy. Chí Phèo thấy lòng bâng khuâng mơ hồ
buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười của
những người đàn bà đi chợ về…những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng
gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm hồn. Cuộc gặp gỡ Thị Nở như một tia chớp trong cuộc đời
tối tăm dằng dặt của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng của số phận mình. Tình yêu thương đã
thức tỉnh anh, và linh hồn của anh bấy lâu nay đã bán cho quỷ để đổi lấy miếng ăn thì giờ anh đã trở
về. Anh bỗng thẫy “Thèm” lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Tức là anh vô cùng
khao khát được mọi người nhận anh trở lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người
lương thiện. Tình yêu của thị Nở đã mở đường cho anh Chí Phèo trở lại làm người. Câu trả lời của
thị Nở đã quyết định số phận của anh.
Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại.
Bà cô thị Nở không cho phép cháu bà đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng
trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí
Phèo. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra.
Thế là Chí Phèo lại rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Khi hiểu ra rằng xã hội dứt khóat cự tuyệt
mình. Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống…nhưng càng uống
càng tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hanh của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức cho
đến khi uống say mêm và lại xách dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi…như mọi lần. Nhưng lại khác hẳn
mọi lần, trong cơn đau tuyệt vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng
vô phương cứu chữa của đời mình. Anh đến trước mặt Bá Kiến, đanh thép kết án lão và giết chết
lão, sau đó, anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về, anh
không thể sống kiểu lưu manh, sống như thú vật được nữa, nhưgn xã hội không cho anh sống cuộc
sống của con người! Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh
cửa cuộc đời đóng chặt trước anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết
trong niềm đau thương tột cùng vì nỗi khát khao mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm
người đã không trở thành hiện thực. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo “Ai cho tao lương thiện” là câu
hỏi chất chứ phẫn uất, đau đớn, còn làm ray rứt người đọc đên hôm nay.
Câu hỏi ấy đã cô đúc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm một cách sâu sắc
và thắm thía. Làm thế nào để con người được sống của con người trong cái xã hội tàn bạo ngột
ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi
lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao và đưa Chí Phèo lên những tác phẩm hay nhất có
giá trị nhất trong văn học hiện đại.