Câu 1: Bài thơ được gợi cảm hứng từ một tấm thiệp của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho HMT để động viên, an ủi khi bà nghe tin nhà thơ bị bệnh phong. Lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” (1938) in trong tập “Đau thương”.
"Chiều tối" là bài thơ ra đời trong khoảng thời gian đầu khi bác ở trong tù. Cũng trong thời gian đầu ấy, đã có nhiều bài thơ Bác ghi lại ảnh "trên đường"chuyển lao ("Năm mươi ba cây số một ngày_Áo mũ đầm mưa sách hết ngày")_Mới đến nhà lao Thiên Bảo)và bài này cũng nằm trong mạch các bài thơ "Đi đường"ấy .Bài thơ thể hiện một phong cách nghệ thuật nhất quán là sự thống nhất trong đa dạng của tập "Nhật kí trong tù".Đó chính là sự vận động của hình tượng thơ, trong thơ bác bao giờ cũng từ bóng tồi hướng ra ánh sáng , từ lạnh lẽo đến ấm áp , từ nỗi buồn đến niềm vui . Điều này cũng được thể hiện rõ trong bài thơ "Chiều tối ".
Trong bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng xa lạ có gì như thoáng buồn ẩn chứa những liên tưởng mơ hồ:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không ) Câu thơ mang màu sắc của cổ thi bởi bút pháp miêu tả chấm phá và những thi liệu quen thuộc cửa thơ cổ xưa . Không nói đến thời gian chính xác nhưng hình ảnh "cánh chim"đủ sức diễn tả không gian còn mang ý nghĩa thời gian . Hai câu đầu diễn tả cảnh vật trong một buổi chiều tối . Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất minh hoạ vừa nhớ đến tứ thơ quen thuộc của thi ca cổ điển . Sự mệt mỏi của cánh chim sự cô đơn của đám mây chiều là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù tha phương . Trong lúc mệt mỏi ấy người tù vẫn dành cho thiên nhiên một tình yêu lớn , người đã vẽ lên bức tranh đẹp và đậm chất cổ điển . Đó là biểu tượng của một buổi chiều tà , một chiều thu êm ả nhưng cảnh vật thoáng vẻ buồn , mệt mỏi và đơn chiếc . Cảnh ấy có sự hài hoà với lòng người . Rõ ràng đó chính là sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm trạng con người được thể hiện khá đậm nét . Song hình tượng thơ không dừng lại ở đó mà có sự vận động rất độc đáo . Từ một bức tranh thiên nhên , lời thơ đã chuyển sang một bức tranh sinh hoạt bình dị . Thời gian từ chiều muộn đã chuyển sang chiều tối . Cảm xúc của con người không còn thoáng buồn nữa mà đã thấy vui . Không gian cũng bừng sáng lên màu đỏ "rực hồng" của lò than :
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng .
Hình ảnh cô gái xay ngô tối trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ , toát lên vẻ trẻ trung , khoẻ mạnh sống động . Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động . Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai , về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống .Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại . Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn :"Ma bao túc","bao túc ma" hành động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô . Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng kì diệu chính là ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà vào nhịp điệu trong cuộc sống . Buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối , song đêm tối không lẽo âm u mà bừng sáng bằng ngọn lửa hồng.
Từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ "Chiều tối" là sự vận động của tứ thơ từ nỗi buồn sang niềm lạc quan , từ bóng tối ra ánh sáng . Hai câu trên cảnh buồn và lòng cũng không vui . Cảnh ấy , tình ấy thể hiện ở hính ảnh cánh chim mỏi mệt về rừng và chòm mây cô đơn chầm chậm trôi qua lưng trời. Hai câu thơ lại là một niềm vui thể hiện ở hình ảnh ánh lửa hồng bỗng rực sáng lên.Ánh lửa hồng là niền vui của con người làm tan đi cái cô đơn , mệt mỏi tàn lụi của buổi chiều nơi núi rừng hiu quạch . Dó cũng chính là nét cổ điển nhưng vẫn khá hiện đại của bài thơ .
Sự vận động của hình tượng thơ từ thiên nhiên quạch vắng đến con ngýời lao động , đến sự sống đến ánh sáng và tương lai được thể hiện hết sức tự nhiên , giàu cảm xúc . Sự vận động này trong tư tưởng Hồ Chí Minh nằm xuyên suốt trong các bài thơ của tập "Nhật kí trong tù".
Bài thơ kết lại bằng chữ "hồng "chính là nhãn tự của bài thơ thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài . Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ"hồng"đó. Nó thể hiện niềm tin tưởng ý chí , nghị lực kiên cường của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh của ngọn lửa hồng mang lại cho người đọc cảm giác ấm áp và niềm vui . Ngọn lửa của sự sống vẫn còn lung linh tươi sáng và sưởi ấm mãi muôn đời .
Bài thơ vừa mang phong vị cổ điển vừa có phẩm chất hiện đại, dào dạt cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên và những con người lao động bình dị mà cao đẹp . Cảnh chiều tà vùng sơn cước trong cái nhìn của người tù trên đường lưu đày sự chuyển đổi của thời gian , cảnh vật ....đã làm cho bừc tranh "chiều tối"không kết thúc với bóng đêm u tối , với cái buốt lạnh của núi rừng mà ấm sáng bởi ngọn lửa hồng -ngọn lửa của một trái tim , mọt tấm lòng yêu sự sống , yêu đời , yêu đát nước và lòng thương người vô hạn.
Câu 1:
Bài Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác khoảng vào năm 1938 , trong thời gian ông sống bệnh tật , vật vã với cơn đau ở trại phong Quy Hòa , ít lâu sau ông từ dã cõi đời ở đây ,in đầu tiên trong tập Thơ Điên (Thơ Điên Vì sau đôi tên Thành đau thương )
Câu 2:
Bạn có thể tham khảo ở đây nhe bạn nhe http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=99408
hoặc có thể tham khảo bài này nhe bạn ! Chiều tối là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng- cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơû đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.
Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên
chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)
như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.
Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được