[Văn 10]

D

duongtuanqb

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Câu 1: Cảm nhận của em về nhân vật Từ Hải qua đoạn trích " Chí khí anh hùng ".
Câu 2: Cảm nhận của em về 12 câu đầu của đoạn trích "Trao duyên".
Câu 3: --------------------------- 8 câu cuối ----------------------------------------------
 
H

heart_foryou_9x

_sưu tầm_
Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng. Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải. Tác giả dựng lên hình ảnh "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ "thẳng giong" có người giải thích là "vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau. Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói : Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ Hải đã đáp lại rằng :
Từ rằng : "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự : Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia". Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp. Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống : Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì ! Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn. Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này. Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu : Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành "diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt". Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến. Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm. Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.
 
Last edited by a moderator:
H

heart_foryou_9x

_sưu tầm_
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-· 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.

Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”

Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắc khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!

Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…

Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thât đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.

Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.

Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.

Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.

“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”


kiếp số của họ:


“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Hay như Mộng Liên Đường cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy", quả thật không ngoa chút nào!
 
L

l0na_l0v3

ney...
tên thực của truyện kiều là "đoạn trường tân thanh" có nghĩa là"tiếng kêu đứt ruột", thực ra trong đó có muôn vàn tiếng kêu đau thương. mà trao duyên có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên khởi đầu cho 1 chuỗi dài đau thương chồng chất nên cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc vẹn toàn. thuý kiều đứt ruột trao duyên cho em và nguyễn du đã khắc nên cảnh đau thương đó bằng những lời thơ đau buồn xé ruột.
bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gđ thuý kiều, nàng buộc phải hi sinh mối tình với kim trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho chúng để cứu cha và em khỏi đòn tra khảo dã man. việc bán mình đã thu xếp xong xuôi, kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ e gái là thuý vân thay mình kết duyên với kim trọng. đoạn trích trao duyên được trích từ câu 723 đến câu 756 là lời thuý kiều nói cùng thuý vân.
nhan đề trao duyên gây trong lòng người đọc rất nhiều băn khoăn. vì từ xưa đến nay "trao đổi" chỉ được sử dụng ở vật chất và có thể định lượng được, còn "trao duyên" thật là lạ lùng và sao bất bình thường quá. trong cuộc đời kiều có nhiều nỗi đau nhưng trao duyên là nỗi đau lớn nhất và là nỗi đau mở đầu đối với kiều. vì chúng ta có thể trao cho nhau bất kỳ vật phẩm quý giá nào đó nhưng có lẽ chưa ai trao duyên của mình cho người khác nhất là cái duyên đẹp như duyên của kiều và chàng kim. vì vậy nhan đề gợi lên nỗi đau đặc biệt của thuý kiều.
nếu nói nguyễn du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy về miêu tả tâm lí nhân vật thì đoạn thơ này tiêu biểu nhất, được các nhà phân tích bình giả không ngớt lời ngợi ca thán phục. trao duyên được mở đầu bằng hai câu thơ:
"cậy em em có chịu lời
ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."
chỉ bằng 2 câu thơ nguyễn du đã dựng lên 1 không khí , 1 cảnh ngộ đặc biệt. lời nói của t.kiều với t.vân k còn là ngôn ngữ thông thường củ chị nói với e trong 1 gđ gia giáo nữa. mà trọng lượng của 2 câu thơ rơi vào 4 ch:"cậy, chịu, lạy, thưa" đây là những chữ k thể thay thế bằng những từ khác. tác giả chọn từ "cậy" mà k phải từ "nhờ" vì ngoài lý do thanh trắc gây 1 điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ mà nó còn có hàm ý hi vọng, lương tựa tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. nếu tác giả dùng từ "nhờ" thỳ bấy nhiêu đó sẽ nhạt phai hết. còn từ "chịu lời" là sự giàng buộc, "nhận" thỳ tuỳ vào em em nhận cụng được mà em k nhận cũng được nhưng trong trường hợp này kiều muốn em k được từ chối đề nghị của mình nên lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật chính xác và chặt chẽ. thuý kiều yêu cầu em ngồi lên cho chị "lạy" trước rồi mới "thưa" sau cũng là ý nài ép như vậy, nhưng bây giờ kiều dùng lễ nghi để ép buộc lời thưa rất trang trọng. vừa tình tứ,vừa lễ nghi như vậy thỳ vân từ chối làm sao đây?. có thể nói bằng lời lẽ khẩn khoản thiết tha cầu khẩn chính em gái ruột của mình và kiều hiểu gánh nặng ,ình sắp phải trao cho em. và cũng hiểu sâu sắc hơn tình thế khó sử của vân.
kiều nhắc đến mối tình dang dở của mình và kim trọng gắn gọn, rõ ràng và rất dứt khoát:
"giữa đường đứt gánh tương tư
keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
vì hạnh phúc gđ,vì vận mệnh cha và em, vì chữ hiếu kiều hi sinh hạnh phúc cá nhân đó là lí tưởng đạo đức cũng là 1 phương diện hạnh phúc của đời nàng.ngoài tình thương cha và em còn tình yêu với kim trọng 1 người con gái nhan sắc tài hoa, trái tim nồng nàn nàng đã sống trong hương vị ngọt ngào của ty vậy mak giờ đây :"giữa đường đứt gánh tương tư" thì thật dở dang vô cùng. hình ảnh thơ nói rõ tình trạng bất lực của t.kiều đến đây mọi việc phó mặc cho em của em:"mặc em" tức là phó mặc cho em dở hay em cũng phải gánh vác cho chị. nhờ cậy xong kiều mới nói lý do:
"kể từ khi gặp chàng kim,
khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề.
sự đâu sóng gió bất kì,
hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
nội dung thông báo rõ ràng cụ thể. ba chữ khi:"khi gặp,khi ngày, khi đêm" đã nói nên sự thề ước nhiều lần sẵn sàng k thể nuốt lời nên kiều phải nhờ em nối duyên với k.trọng. chàng kim là người phong tư tài mạo tuyệt vời kiều đã đối diện với hạnh phúc ban đầu của những sớm chiều tình tứ, làm sao có thể chôn vùi trong tim đang độ sôi nổi mối tình đầu nên thơ son sắt ấy.
kiều tiếp tục thuyết phục vân thay mình trả nghĩa cho k.trọng kiều nói với vân bằng những lời tâm sự biểu hiện của những câu thơ mang phong cách thành ngữ:"tình máu mủ","ngậm cười chín suối","thịt nát xương mòn","thay lời nước non" kiều giàng buộc vân bằng tình mẫu tử ruột thịt khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao cả của em và từ đây trở đi kiều koi như mình đã chết.
đoạn trích thể hiện bi kịch tình yêu thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của t.kiều. cho thấy tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của nguyễn du.
Lần sau nhớ viết chữ đầu câu và tên riêng viết hoa nhé!
__________________
ng0k_hoàn_ng0k
 
Last edited by a moderator:
L

l0na_l0v3

ney...12 câu đầu đoạn trik trao duyên dey!

tên thực của truyện kiều là "đoạn trường tân thanh" có nghĩa là"tiếng kêu đứt ruột", thực ra trong đó có muôn vàn tiếng kêu đau thương. mà trao duyên có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên khởi đầu cho 1 chuỗi dài đau thương chồng chất nên cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc vẹn toàn. thuý kiều đứt ruột trao duyên cho em và nguyễn du đã khắc nên cảnh đau thương đó bằng những lời thơ đau buồn xé ruột.
bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gđ thuý kiều, nàng buộc phải hi sinh mối tình với kim trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho chúng để cứu cha và em khỏi đòn tra khảo dã man. việc bán mình đã thu xếp xong xuôi, kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ e gái là thuý vân thay mình kết duyên với kim trọng. đoạn trích trao duyên được trích từ câu 723 đến câu 756 là lời thuý kiều nói cùng thuý vân.
nhan đề trao duyên gây trong lòng người đọc rất nhiều băn khoăn. vì từ xưa đến nay "trao đổi" chỉ được sử dụng ở vật chất và có thể định lượng được, còn "trao duyên" thật là lạ lùng và sao bất bình thường quá. trong cuộc đời kiều có nhiều nỗi đau nhưng trao duyên là nỗi đau lớn nhất và là nỗi đau mở đầu đối với kiều. vì chúng ta có thể trao cho nhau bất kỳ vật phẩm quý giá nào đó nhưng có lẽ chưa ai trao duyên của mình cho người khác nhất là cái duyên đẹp như duyên của kiều và chàng kim. vì vậy nhan đề gợi lên nỗi đau đặc biệt của thuý kiều.
nếu nói nguyễn du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy về miêu tả tâm lí nhân vật thì đoạn thơ này tiêu biểu nhất, được các nhà phân tích bình giả không ngớt lời ngợi ca thán phục. trao duyên được mở đầu bằng hai câu thơ:
"cậy em em có chịu lời
ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."
chỉ bằng 2 câu thơ nguyễn du đã dựng lên 1 không khí , 1 cảnh ngộ đặc biệt. lời nói của t.kiều với t.vân k còn là ngôn ngữ thông thường củ chị nói với e trong 1 gđ gia giáo nữa. mà trọng lượng của 2 câu thơ rơi vào 4 ch:"cậy, chịu, lạy, thưa" đây là những chữ k thể thay thế bằng những từ khác. tác giả chọn từ "cậy" mà k phải từ "nhờ" vì ngoài lý do thanh trắc gây 1 điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ mà nó còn có hàm ý hi vọng, lương tựa tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. nếu tác giả dùng từ "nhờ" thỳ bấy nhiêu đó sẽ nhạt phai hết. còn từ "chịu lời" là sự giàng buộc, "nhận" thỳ tuỳ vào em em nhận cụng được mà em k nhận cũng được nhưng trong trường hợp này kiều muốn em k được từ chối đề nghị của mình nên lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật chính xác và chặt chẽ. thuý kiều yêu cầu em ngồi lên cho chị "lạy" trước rồi mới "thưa" sau cũng là ý nài ép như vậy, nhưng bây giờ kiều dùng lễ nghi để ép buộc lời thưa rất trang trọng. vừa tình tứ,vừa lễ nghi như vậy thỳ vân từ chối làm sao đây?. có thể nói bằng lời lẽ khẩn khoản thiết tha cầu khẩn chính em gái ruột của mình và kiều hiểu gánh nặng ,ình sắp phải trao cho em. và cũng hiểu sâu sắc hơn tình thế khó sử của vân.
kiều nhắc đến mối tình dang dở của mình và kim trọng gắn gọn, rõ ràng và rất dứt khoát:
"giữa đường đứt gánh tương tư
keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
vì hạnh phúc gđ,vì vận mệnh cha và em, vì chữ hiếu kiều hi sinh hạnh phúc cá nhân đó là lí tưởng đạo đức cũng là 1 phương diện hạnh phúc của đời nàng.ngoài tình thương cha và em còn tình yêu với kim trọng 1 người con gái nhan sắc tài hoa, trái tim nồng nàn nàng đã sống trong hương vị ngọt ngào của ty vậy mak giờ đây :"giữa đường đứt gánh tương tư" thì thật dở dang vô cùng. hình ảnh thơ nói rõ tình trạng bất lực của t.kiều đến đây mọi việc phó mặc cho em của em:"mặc em" tức là phó mặc cho em dở hay em cũng phải gánh vác cho chị. nhờ cậy xong kiều mới nói lý do:
"kể từ khi gặp chàng kim,
khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề.
sự đâu sóng gió bất kì,
hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
nội dung thông báo rõ ràng cụ thể. ba chữ khi:"khi gặp,khi ngày, khi đêm" đã nói nên sự thề ước nhiều lần sẵn sàng k thể nuốt lời nên kiều phải nhờ em nối duyên với k.trọng. chàng kim là người phong tư tài mạo tuyệt vời kiều đã đối diện với hạnh phúc ban đầu của những sớm chiều tình tứ, làm sao có thể chôn vùi trong tim đang độ sôi nổi mối tình đầu nên thơ son sắt ấy.
kiều tiếp tục thuyết phục vân thay mình trả nghĩa cho k.trọng kiều nói với vân bằng những lời tâm sự biểu hiện của những câu thơ mang phong cách thành ngữ:"tình máu mủ","ngậm cười chín suối","thịt nát xương mòn","thay lời nước non" kiều giàng buộc vân bằng tình mẫu tử ruột thịt khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao cả của em và từ đây trở đi kiều koi như mình đã chết.
đoạn trích thể hiện bi kịch tình yêu thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của t.kiều. cho thấy tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của nguyễn du.
__________________
ng0k_hoàn_ng0k
 
U

uocmovahoaibao

Bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối vơi gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hy sinhmối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền đút lót cho bọn chúng để cứu cha vàem ra khỏi đòn tra khảo dã man. Việc bán mình thu xếp xong xuio6, kiều phảitrắng đêm suy nghĩ về thân phận và tình yêu của mình, và rồi nàng đã đưa ra mộtquyết định vô cùng khó khăn là nhờ em gái mình kết duyên với Kim Trọng:
“Cậy em…
…… thơmlây”.
Nếu nóiNguyễn Du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy về miêu tả tâm lý nhân vật thì đoạn tríchnày là đoạn thơ tiêu biểu nhất, thần tình nhất khiến cho các nhà phân tích,bình giảng trước nay không hết lời thán phục và ca ngợi. Mở đầu đoạn trích,Nguyễn Du đã viết:
“Cậy em em có chịu lời, “
Tại saolại là “cậy” mà không phải là “nhờ”? Vì từ “cậy” bao hàm cái ý hy vọng thathiết của một lời trối trăng, có ý nươngtựa gửi gắm, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Và chính âm “trắc” của từ đó đãgây nên một điểm nhấ lắng đọng cho câu thơ. Nếu dùng từ “nhờ” thì bấy nhiêunghĩa sẽ nhạt đi hết. Chị cậy em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Baonhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ “cậy” ấy! Nguyễn Du thậttài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Và thêm từ “chịu” nữa, “chịulời” chứ không phải là “nhận lời”, cách nói đó như một sự bắt buộc mà Kiều muốnem không được từ chối lời đề nghị của mình. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thậtchính xác, chặt chẽ.
“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa “
Cũng khôngphải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự"thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình,như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật.Cái yêu cầu em ngồi lên cho mình lạytrước, thưa sau cũng là một ý nài ép. Nhưng bây giờ lại dùng lễ nghi để ràngbuộc. Việc Kiều lạy Vân cho thấy sự việc phải lớn lao và hệ trọng đến nhườngnào. Vừa tình vừa lễ như vậy thì Vân chối sao đặng ?
Lời thưacủa kiều rất rõ ràng, vắn tắt và dứt khoát:.
Giữa đườngđứt gánh…
… mặc em.

Người xưaxem tình yêu là một nghĩa vụ, gánh nặng, cho nên nói “gánh tương tư”, gánhtương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh,ai mà không đau khổ.. Hình ảnh thơ đã cho thấy rõ tình trạng bất lực của kiều(oops!!) Mọi việc đều phó thác cho em gánh lấy. Nỗi đau khổ vì không giữ trọnlời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em,phải giãi bày tất cả. “Mặc em”, phó mặc cho em đó, dở hay gì em cũng phải gánhvác cho chị. Câu nói này mang giọng điệu phó thác của người chị cho em nữa, nêncó một áp lực hết sức nặng nề. Bốn câu thơ đã nói hết mọi sự hy vọng, ủy thácvà nài ép của Kiều, Vân không được phép từ chối. Và Vân chẳng phải đã im lặngkhông nói một lời nào hay sao?

Nhờ cậyxong Kiều mới nói lý do:
“Kể từ khigặp chàng…

Vẹn hai?”
Nội dungthông báo rõ ràng, nhưng sự trùng điệp 3 lần của chữ “khi” đã nói lên sự thềước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời. Kiều kể lại kỷ niệm xưa, tâm trạngđưa đẩy, cảm xúc của nàng đan xen giữa việc trao duyên và tình yêu với KimTrọng, tâm trạng nàng đưa đẩy. Nào ngờ“Sự đâu sóng gió bất kỳ”, tai họa ập đến đột ngột, vô cớ, bi kịch tình yêu xảyra, Kiều phải đau đớn tìm ra sự lựa chọn giữa hai chữ “hiếu” và “tình”. Nỗi đaumột chữ “tình” nỗi thương hại ba lần chữ “hiếu”. Nàng nhắc lại việc mình đã lựachọn, nhưng vẫn phân vân: “Hiếu tình không lẽ hai bề vẹn hai”. Trăm ngàn tiếcnuối, đắng cay, nàng cố cầm lòng, nén lại tiếng khóc để bình tĩnh bắc một bàncân chập chờn hai phía. Em ơi, thân chị chỉ có một mà tình nghĩa đòi hai. Giữahai chữ ấy, chị đã nhận rồi, chữ “hiếu”,còn em, em giúp chị làm tròn chữ“tình”.
Từ đây,Kiều chuyển sang làm tỏ sự tình:
“Ngàyxuân…
… thịt nátxương mòn
… thơmlây.”

Càng vềcuối, Kiều càng cố thuyết phục em bằng tình cảm nhỏ nhẹ, bằng trách nhiệm lớnlao. Nàng dùng những lời nói, những hình ảnh thiêng liêng, cao cả khiến Vân,hay bất kỳ ai nghe cũng không thể từ chối: Tuổi trẻ của em còn dài, thương chịmà thay chị nối tình với chàng Kim, chị dẫu có chết cũng hả dạ. Nhưng thực lòngthì kiều xem như mình từ đây trở đi như đã chết rồi. Câu “Ngày xuân em hãy còndài” cũng có nghĩa là ngày xuân của chị đã hết rồi, chị chỉ còn có thể “thịtnát xương mòn” mà “ngậm cười chín suối” mà thôi.

Lời traoduyên như một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao là tình của mình, su lờitrao là mình đã trắng tay. Trước khi trao mình là người còn sống, sau khi traomình như đã chết rồi. Trước khi trao, Kiều sống với hiện tại, khi trao xong thìvừa hiện tại, vừa quá khứ, nhưng tương lai lại là hư vô. Đoạn thơ là nỗi lòngđau đớn tan nát thê lương của nàng Kiều. Con chim sắp chết thì tiếng kêuthương. Mối tình sắp mất thì lời thê thảm. Đây đúng là đoạn thơ lâm li nhâttrong cả Truyện Kiều.
 
Top Bottom