[văn 10]Văn học Trung Quốc.

T

trang.linhngoc

Last edited by a moderator:
B

bupbe_thuytinh

Theo Phạm Đan Quế: Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân tên thật là Nguyễn Đăng Tuyển, hiệu Mộng Liên Đường (sau năm 1885 kiêng húy chữ Đường nên đổi ra Tiên Phong Mộng Liên Đình) và Hy Lượng Phủ. Ông người làng Hoài Thượng, Tiên Du, Bắc Ninh, sinh khoảng 1795, mất khoảng 1880, đỗ Tú tài năm Minh Mệnh thứ 17 (1836). Năm Tự Đức nguyên niên (1848) ông thường được dự ứng chế thơ văn, lại soạn các quyển Đào hoa mộng ký, Nam thi quốc phong, dâng vua xem, được chuyển làm trước tác, sung chức Biên Tu Sử Quán. Ông từng giữ chức chủ sự bộ Hộ, thăng Thị Độc, rồi tri phủ Thuận Thành. Ông có đi sứ Trung Quốc. Năm Ngũ tuần đại khánh (mừng vua Tự Đức 50 tuổi, 1878) ông có dâng thơ tụng và được ban thưởng, sau đó vài năm thì mất, thọ 86 tuổi.
 
T

trang.linhngoc

Ô thế Mông Liên Đường chủ nhân là người Việt sao? Vậy mà mình cu tưởng ông là người Trung Quôc.
 
C

congchualolem_b

Mộng Liên Đường chủ nhân là người rất mê Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông đã làm một bài tựa về

"Đoạn trường tân thanh", bạn tham khảo nha:

4- BÀI TỰA ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
CỦA
TIÊN PHONG MỘNG LIÊN ĐƯỜNG
CHỦ NHÂN

(Bản dịch của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim)


Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Thế mà lại có kẻ thương tiếc tài tình, xem thấy việc, trông thấy người, thì còn nhịn thế nào được mà không thở than rền rĩ!

Nghĩ là bậc thánh mới quên được tình, bậc ngu không hiểu tới tình, tình chung chú vào đâu, chính là chung chú vào bọn chúng ta vậy. Cho nên phàm người đã ít tình tất là không có tài, chỉ nửa lòa nửa sáng, sống chết ở trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh nhã như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm cũng chỉ trơ trơ như cây cỏ, như cá chim vậy.

Còn đến bậc tuyệt thế tài tình, mặt ngọc vẻ hoa, lòng gấm miệng vóc, ngâm thơ liễu nhứ, nổi tiếng đài hương; vịnh phú ngô đồng, khoe tài án bút; nếu một bậc quán tuyệt thiên thu như thế lại gặp được bậc chân chính tài nhân kết duyên tác hợp, khi thơ ngâm hoa nở, khi đàn gảy trăng lên, nguồn ái ân trọn nghĩa trăm năm, truyện phong lưu chép thành một lục; người đương vào cái cảnh ấy đã không gặp nỗi khảm kha bất bình, thì người truyền lại việc ấy còn phải đặt ra truyện Đoạn Trường Tân Thanh làm gì?

Chỉ vì dịp may dễ lỡ, việc tốt thường sai; tiếng hoàn lặng ngắt, còn trơ bóng trúc lung lay; mặt ngọc vắng tênh, chỉ thấy hoa đào hớn hở. Có tài mà không gặp được tài, có tình mà không hả được tình, tài tình đã tuyệt thế, gặp toàn bước khảm kha, há không phải là con Tạo đang tay ách người ta quá lắm ru? Ấy chính là truyện Đoạn Trường Tân Thanh vì đấy mà làm ra vậy.

Truyện Thúy Kiều chép ở “Lục phong tình” ta không cần bàn làm gì. “Lục phong tình” cũng đã cũ rồi. Tố Như tử xem truyện thấy việc lạ, lại thương tiếc đến nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm đề là Đoạn Trường Tân Thanh. Thành ra “Lục phong tình” thì vẫn là cái lục cũ mà tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy.

Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ “tạo vật đố tài” tóm cả một đời Thúy Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu ***; khi duyên ưa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ mà tê lưỡi. Vui buồn tan hợp mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt không khác gì một bức tranh vậy. Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn Trường Tân Thanh cũng phải.
Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết; nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy; bèn vui mà viết bài tựa này.

Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một. Người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lệ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy.

Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức dao thiên, song đủ tỏ ra rằng, cái nợ sầu của hai chữ tài tình tuy khác đời mà chung một dạ, may được nối ở đằng sau quyển Tân Thanh của Tố Như tử, cùng làm một khúc Đoạn Trường để than khóc người xưa.

Tháng hai, niên hiệu Minh Mạng.
Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân
viết ở Thán Hoa hiên, đất Hạc Giang.
 
Top Bottom