[Văn 10]Bài tập làm văn số 3

A

anprao123

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Hãy phân tích vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi trong bài thơ cảnh ngày hè.
Mong các bạn giúp đỡ,mà các bạn có lòng thì tự làm giúp mình:)>- chứ đừng chép từ web khác,mấy bài web khác mình xem hết rồi chả hiểu gì cả:confused:,ngày 23/11/2011 là mình phải nộp rồi.:-SS
 
C

conan99

Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới) là một trong những bài thơ đặc trưng nhất cho nội dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ là một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc, là tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen thất ngôn, từ ngữ có sức miêu tả sinh động… Trong quá trình soạn giảng thi phẩm này từ khi thực hiện chương trình chỉnh lí hợp nhất đến chương trình thí điểm phân ban, rồi đến chương trình phân ban đại trà hiện hành, bản thân tôi có đôi điều trăn trở sau đây.

1. Về một chữ ở câu 4: “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” hay “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”?

Về chữ này, các nhà biên soạn sách giáo khoa Văn học 10 (chương trình chỉnh lí hợp nhất) chọn đưa vào bản phiên là “tịn” (từ cổ, biến âm của “tận”, nghĩa là “hết”) và nhiều tài liệu tham khảo dùng cho giáo viên và học sinh lâu nay cũng đều phân tích, giảng bình bài thơ theo bản này. Đến chương trình thí điểm phân ban, các nhà biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ 1, đã quyết định chọn bản phiên chữ này là “tiễn” với chú thích như sau:

“Tiễn: từ Hán Việt có nghĩa đầy, có thừa, trong câu này có thể hiểu là ngát hoặc nức. Hai câu: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ - Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, ý nói trong khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục phun thức đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương”.

... Tóm lại, phiên chữ này ở câu 4 là tiễn và hiểu là “ngát” hoặc “nức” thì vừa có căn cứ, lại hợp với văn cảnh bài thơ hơn”.

Các soạn giả còn chứng minh trong phần hướng dẫn Tiến trình tổ chức dạy học như sau:

“Cây trước lầu, ngoài ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau trổ dáng, khoe sắc, toả hương. Cây hoè trước sân, lá lục đùn đùn, tán rợp giương ra. Cây lựu ở hiên trong khi còn liên tục phun những bông hoa đỏ thắm, thì sen hồng ngoài ao đã kịp nức mùi hương. Lưu ý: sen nở hoa vào mùa hè, đến mùa thu thì tàn (“Sen tàn, cúc lại nở hoa” - Truyện Kiều). Thạch lựu cũng nở hoa vào mùa hè, mùa thu quả chín.

Các từ đùn đùn (= dồn dập tuôn ra), giương (= giương rộng ra), phun, tiễn (= ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa từ bên trong tạo vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, gây ấn tượng”.

Theo như sách giáo viên ở trên thì cả “thạch lựu”, cả “sen” đều cùng “nở hoa vào mùa hè”, cả hai đều đang cùng chung trạng thái “ngát, nức”, căng đầy sức sống trong bức tranh “cảnh ngày hè” mà một bên thì “còn”, một bên thì “đã”? Bởi vì như chúng ta biết, cặp phụ từ “còn” và “đã” thường được người ta dùng để diễn đạt hai trạng thái nghịch chiều, so le kiểu như: Còn nhỏ mà đã yêu với đương. Khách còn ăn, chủ đã đứng dậy. Tôi còn muốn nói chuyện mà bạn đã ngủ…chứ rất hiếm khi nghe người ta dùng để diễn đạt hai trạng thái thuận chiều, ăn nhịp kiểu như: “trong khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục phun màu đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương”; “cây lựu ở hiên trong khi còn liên tục phun những bông hoa đỏ thắm, thì sen hồng ngoài ao đã kịp nức mùi hương” ở chú thích và gợi dẫn nói trên.

Đọc đến đây, nếu ai đó vẫn băn khoăn rằng hiểu câu 4 là sen hồng ở ao đã hết mùi hương e không hợp lắm với văn cảnh bài thơ thì nên lưu ý rằng ở câu 6 của bài thơ còn nói đến “lầu tịch dương” - mặt trời sắp lặn đó thôi. Phải chăng tính nhất quán, lôgic của văn cảnh nằm ở chỗ: Cảnh vật đang ở vào khi cuối: cuối mùa, cuối ngày, nhưng sự sống thì không dừng lại, cảnh vật vẫn cứ ứa căng, tràn đầy sức sống: cây hoè trước sân đùn đùn tán rợp trương xanh mát một khoảng trời, thạch lựu hiên nhà phun thức đỏ rực rỡ, phiên chợ chiều làng ngư phủ lao xao vui tai vui mắt, ve lầu tây dắng dỏi như bản đàn tấu lên rộn rã… Một bức tranh toàn cảnh cuối hè nơi thôn dã được chủ thể cảm nhận không chỉ bằng thị giác, khứu giác, thính giác mà còn bằng cả tâm hồn của mình. Bức tranh đó đi vào trang thơ đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của thi nhân nhưng vẫn tươi nguyên tính hiện thực, sinh động, cụ thể như nó vốn có.

2. Về việc lựa chọn cách hiểu với hai câu cuối: Ca ngợi cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi phương” đã có hay ước vọng cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi phương” chưa có?

Tác giả cuốn Tư liệu Văn 10, phần Văn học Việt Nam, viết:

“Cảnh sống của nhân dân náo nhiệt tấp nập và giàu đủ nữa. Đó là cảnh làng cá bước vào buổi chợ với những mẻ bội thu, cảnh mua bán thật tấp nập yên vui. Không có một dấu hiệu gì của sự trì trệ, của sự mất an ninh, của sự thiếu đói. Đúng là cảnh đời thái bình thịnh trị, rất đáng gảy lên khúc đàn vua Thuấn.

Tâm hồn Nguyễn Trãi thảnh thơi, sự thảnh thơi hiếm có giữa những trang thơ Nôm của ông. Nhà thơ vui với cái vui của người dân lao động, vui chân thật bình đẳng (…) Nhà thơ lạc quan với cuộc sống thiên nhiên đang lên, đang phát triển tràn ngập màu xanh và đầy ắp đời thường no đủ”.

Cũng với cách hiểu, cách luận giải theo hướng này, tác giả cuốn Giảng văn Văn học Việt Nam viết:

“Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước (…) Thật hiếm hoi khi thấy Nguyễn Trãi có được những phút giây thanh thản. Ở đây ông có cả một “ngày trường” thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai tự giành cho mình quyền “Rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vò, mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no hạnh phúc.

Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là người lao động - những dân chài lam lũ - được yên vui, no đủ, Nguyễn Trãi ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gẩy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

Chúng ta biết rằng, trong Quốc âm thi tập, bên cạnh phần thơ thiên nhiên và bao trùm lên cả đề tài thiên nhiên là một chủ đề khác quan trọng hơn: sự giãi bày những tâm sự thiết tha nhưng phải nén kín của nhà thơ. Đặc biệt xuyên suốt những nỗi niềm tâm sự ấy có một nét nổi bật, làm thành cảm hứng chủ đạo trong thơ Ức Trai, đó là tấm lòng yêu thương, gắn bó với con người, với cuộc đời không lúc nào nguội lạnh, ý muốn thiết tha giúp nước và chủ nghĩa trung quân tích cực… Quốc âm thi tập mở ra cho người đọc thấy một trái tim đau thương cao cả, một tâm hồn rất mực giàu có, một tình cảm biết nén nỗi buồn để lúc nào cũng có thể lạc quan yêu đời.

Nguyễn Trãi suốt đời đau đáu một hoài bão lớn: làm gì để “yên dân”, người dân lầm than khổ cực được yên vui, an lành, no ấm, hạnh phúc trong “nền thái bình muôn thuở”. Đáng tiếc, quan lộ của Nguyễn Trãi không mấy yên ổn, nên ông không có đủ cơ hội đem tất cả chí hướng và tài năng của mình cống hiến cho nước, cho dân. Khi đã không còn được trọng dụng, đã lui về bầu bạn cùng thiên nhiên trong sạch và tràn đầy sức sống, lòng Nguyễn Trãi vẫn không nguôi hướng về cuộc đời sôi động còn bao nỗi cay đắng, bất công, vẫn thiết tha mong muốn lại được mang tài trí của mình ra giúp đời giúp nước:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.

Diễn giải như thế để chúng ta có thể thấy cách hiểu của Nguyễn Thành Chương và Lã Nhâm Thìn trong các phần trích dẫn trên đây, đặc biệt là ở những chỗ đã được người viết bài này gạch chân, về hai câu cuối bài Cảnh ngày hè là không ổn. Các cách hiểu sau đây giàu sức thuyết phục hơn:

Cách hiểu của Đoàn Đức Phương trong Học văn lớp 10, NXB Giáo dục, 1995:

“Hai câu cuối kết đọng biết bao suy tư của nhà thơ. Ông vui với thiên nhiên, với con người, nhưng hơn thế ông còn khao khát hành động để giúp đời giúp nước. Niềm khao khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của vua Thuấn để ca ngợi cảnh thái bình, hay nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn để nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng, hạnh phúc, yên vui. Ước mơ xuất phát từ những gì chưa có. Thời Nguyễn Trãi chưa có cảnh: “Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Do đó hai câu thơ nặng trĩu đau đời và sâu lắng một tinh thần trách nhiệm cao cả”;

Và cách hiểu của các soạn giả Sách giáo viên Ngữ văn 10 của chương trình thí điểm phân ban, bộ 1, cũng như của chương trình nâng cao, phân ban đại trà hiện hành:

“Ông (tức Nguyễn Trãi – HĐK chú thích) lẽ ra lúc này phải có cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nói lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ”...



Tóm lại, về bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới, bài số 43) của Nguyễn Trãi, các nhà biên soạn nên chọn đưa vào chương trình bản phiên chữ thứ 5 của câu 4 là “tịn” (tận, hết) để thể hiện được ý nghĩa của cặp phụ từ “còn” – “đã” trong câu này và câu 3 đứng trước, thể hiện được bức tranh trong bài thơ là bức tranh ngày hè độ cuối mùa còn căng tràn sức sống với tất cả tính chân thực, sinh động, cụ thể của nó. Người dạy, người học nên chọn cách hiểu đối với hai câu cuối là ước vọng của Nguyễn Trãi về viễn cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi phương” để phù hợp hơn với cảm hứng chủ đạo trong Quốc âm thi tập, với thực tế lịch sử -xã hội thời đại Nguyễn Trãi, với tấm lòng đau đáu khát vọng “yên dân”, với những uẩn khúc của một nhà nho tinh thần trách nhiệm cao cả nhưng không còn cơ hội thực hiện trọn vẹn lý tưởng đời mình, với cái tình thế nhàn cư mà chẳng nhàn tâm trong những ngày dài “nhàn quan” của vĩ nhân Ức Trai Nguyễn Trãi
 
G

ga_cha_pon9x

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn.Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hẻ” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “ lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.
Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ :
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục : Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:
“ Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”
Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.
 
Top Bottom