Ngữ văn
-Nem chợ Sãi, vải La Vang
-Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
-Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
- Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
-Cá bống Bích La, gà Trại Lộc...
Kinh nghiệm về đời sống xã hội có những câu thật xác đáng và thực tế:
-Chạy lóc xóc không bằng góc vườn
-Nhiều nghề cá trê húp nác(nước)
Người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:
- Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát
- Đừng chóng bạc như vôi
- Xách bầu phải xem quai
- Địu con phải xem vải buộc
- Làm cỏ phải xem cán nắm
- Chập choạng bóng trăng em xem chưa rõ
Chập choạng bóng đèn em ngó chưa tường
Dáng ai như dáng người thương
Không vô đây phân giải một đôi đường cho em hay
- Thốt ra tới đâu dạ thiếp sầu tới đó
Cuộc chung tình chàng chưa rõ bấy lâu
Vì ai xê vô lật ván tháo cầu
Trai say dọi gái, gái thảm sầu dọi duyên.
- Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong Quảng Trị quê mình
Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương
- Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.
- Sông Hiền Lương bên bồi, bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Bao giờ giặc Mỹ hết phương
Bắc Nam sum họp con đường vô ra.
- Em trao cho anh một nắm bắp rang
Anh trỉa làm sao cho mọc, thiếp với chàng trao duyên
Đồn bên em có miếng đất hoang
Mưa ba năm không ướt, hạn chín tháng nỏ khô
Đến đây anh trỉa, trỉa vô mọc liền
Thiếp trao cho chàng một nắm ngô rang
Chàng đúc nơi mô cho mọc thiếp thắp nhang mời về
Chỗ nào mà nắng không khô
Mà mưa không ướt đúc vô mọc liền
Xét nghệ thuật ca dao dân ca vùng này, ta sẽ thấy những nét chung cũng như nét riêng trong hình thức sáng tác. Thể lục bát và song thất lục bát rất phổ biến do phù hợp với thể loại hò mái nhì và hò giã gạo. Đó là hai loại hò rất được dân Trị Thiên ưa chuộng.
Tuy về cơ bản là như vậy nhưng rất ít khi người dân ở đây hò nguyên xi đúng chữ, đúng câu mà thường thêm một số chữ cho câu hò trọn vẹn, hoặc để diễn đạt hết ý tình của người hò. Câu lục bát kết thúc bài hò thường được thêm chữ ở cả hai câu:
Nạn chiến tranh gây nên tang tóc
Cảnh điêu tàn chết chóc đau thương
Sơ tán ra đi mẹ một ngả con một đường
Chồng thời xa vợ những đau thương đêm ngày
Có khi thêm vào hai câu song thất và câu kết:
Đứng bên ni Bình An, nhìn sang bãi Cát Sơn, Thuỷ Bạn
Ruột thắt từng chặng, muối xát vào lòng
Nào ai vui vợ vui chồng
Còn em ngĩ tới miền nam ruột thịt đang nhuộm vết máu hồng uất căm.
Có khi lại bớt chữ ở hai câu thất:
Muối ba năm còn mặn
Gừng chín tháng còn cay
Ai dù xuyên tạc lung lay
Trị Thiên ta ơn Đảng, lòng này thuỷ chung
Như vậy , sự thêm bớt chữ trong các câu ca dao Quảng Trị là không có quy tắc mà hoàn toàn tuỳ theo cảm hứng của người hò, sao cho tròn ý nghĩa là được.
Sự hợp vần trong cac dao thường thay đổi, hết gieo vần lưng lại gieo vần chân, như quy luật hợp vần của thể lục bát và song thất lục bát, nhưng một số ít câu ca dao của Quảng Trị lại có lối gieo ở vần chân.
Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao Quảng Trị cũng khá phong phú. Ta sẽ gặp ở đây những loại từ đối nghĩa, đối ý trong dân ca đối đáp:
- Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
- Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi
Trong lời hò đối đáp, lối ứng xử thật thông minh:
Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng
- Thầy ơi chớ nói bao đồng
Một trăm thứ cọp có ông không bà
Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã:
Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
- Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời thân nhân lại , em mở khuôn vàng cho coi